Trong tiếng Pháp, Soeur có nghĩa là chị hay là em gái. Thoạt tiên xem ra đây là một tiếng rất thân thiện và mái ấm gia đình, khi coi người nữ tu như thể một người chị em. Tuy nhiên đằng sau cái nghĩa thân tình ấy còn có một nghĩa thần học nữa. Trong từ ngữ giáo luật trước đây, soeur tiếng Pháp ( hay sister tiếng Anh ) dịch từ tiếng La-tinh soror.
Nhưng sau một thời gian dài không truy cập lại nên tôi đã quên trên truy cập và mật khẩu. Bây giờ tôi đăng ký mới thì hệ thống thông báo là tên cty, người đăng ký đã được đăng ký trước đó. Vậy tôi phải làm gì để được đăng ký mới lại. Xin cảm ơn: 1144
Điều đầu tiên người mới xuất gia cần phải tu là gì? Thời Đức Phật còn tại thế, Tôn giả A-nan có được duyên phước làm thị giả theo hầu bên cạnh Đức Phật. Và ngày nay, ở nhiều chùa chiền, có nhiều người mới xuất gia cũng có duyên được Tăng chúng cắt cử
Vào năm 1944, tại miền Nam Việt Nam, Đức Tổ sư Minh Đăng Quang với chí nguyện "Nối truyền Thích Ca Chánh Pháp" đã sáng lập Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam, nay là Hệ phái Phật giáo Khất sĩ Việt Nam, là một trong chín tổ chức Phật giáo tham gia thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện nay.
Xưa kia Đức Phật hiện thân bệnh khổ. Nhập Niết Bàn ở rừng ta là song thọ. Tôn giả A Nan khóc lóc thảm thương bên kim đài, trong giờ lễ Trà Tỳ. -Bóng chiều đã ngã về tây, mà Hoà Thượng đã làm chủ được bệnh tật, thuận thời thâu thần an nhiên thị tịch, Xem như
SƠ LƯỢC TIỂU SỬ TỔ SƯ MINH ĐĂNG QUANG Hệ Phái Khất Sĩ Phụng Soạn Tổ Sư Minh Đăng Quang (1923 - 1954) Để tưởng niệm công đức khai sơn Hệ phái Khất Sĩ của Tổ sư Minh Đăng Quang , Nhân ngày kỷ niệm 55 năm Tổ Sư vắng bóng , chúng tôi xin giới thiệu tóm lược đôi dòng tiểu sử ghi lại cuộc đời của Tổ Sư .
Tì-kheo - Là gì Wiki. Tì-kheo hay Tỳ-kheo (chữ Nho: 比丘) là danh từ phiên âm từ chữ bhikkhu trong tiếng Pali và chữ bhikṣu trong tiếng Phạn, có nghĩa là "người khất thực" (khất sĩ 乞士, khất sĩ nam 乞士男). Ta còn thấy cách đọc trại khác là Tỉ-kheo, Tỉ-khâu. Cách phiên
NGfl5.
Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam, về sau là Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam, và ngày nay là Hệ phái Khất sĩ 1981 là 1 trong 9 tổ chức thành viên của Giáo hội Phật giáo đã có nhiều đóng góp đáng kể vào sự thống nhất và phát triển bền vững của Giáo hội Phật giáo Việt Nam hôm nay. Đạo Phật Khất sĩ là một sáng tạo độc đáo của Việt Nam, xuất phát từ Việt Nam, chỉ riêng ở Việt Nam mới có. Đây là một hệ phái Phật giáo biệt truyền do Tổ sư Minh Đăng Quang khai sáng, mở đạo vào giữa năm 1944 ở Nam bộ với tôn chỉ “Y bát chơn truyền; Nối truyền Thích Ca chánh pháp”.Bạn đang xem Sức Hấp Dẫn Của Đạo Phật Khất Sĩ Là GìNếu so với nhiều tông phái, hệ phái khác của Phật giáo thì Hệ phái Khất sĩ tính đến nay chỉ mới tồn tại vừa đúng 70 năm 1944-2014. Quảng thời gian này là quá ngắn so với trường kỳ lịch sử Phật giáo nói chung và lịch sử Phật giáo Việt Nam nói riêng. Nhưng Đạo Phật Khất sĩ lại có một sức sống, sức lan toả ảnh hưởng và sự phát triển có thể nói là nhanh chóng. Lúc mới thành lập, hệ phái này chỉ truyền thừa ở miền Tây Nam bộ. Bấy giờ, giáo đoàn du tăng chỉ có khoảng vài mươi người, thì không lâu sau, Đạo Phật Khất sĩ đã lớn mạnh. Nhiều đoàn du tăng được thành lập, đã mang y bát chân truyền và đem giáo lý từ bi của đức Từ Phụ đi phổ độ, hoằng hoá ở Sài Gòn – Gia Định và khắp các tỉnh thuộc Tây và Đông Nam bộ. Từ sau năm 1954 đến trước năm 1975, Đạo Phật Khất sĩ đã được truyền bá rộng rãi đến các tỉnh ở khu vực Trung bộ từ Huế, Quảng Trị trở vào. Rồi đến hôm nay, hệ phái Phật giáo này đã hiện diện trên khắp toàn cõi Việt Nam và đang truyền bá ở vài châu lục tại một số nước trên thế giới như Úc, Pháp, Đức, Hoa Kỳ, Canada...Điều gì đã tạo nên sức hấp dẫn để Hệ phái Phật giáo này phát triển nhanh chóng đến thế? Theo chủ quan của tôi, cái làm nên sức hấp dẫn cùng niềm kính tin tâm linh đối với thế nhân, giúp cho Đạo Phật Khất sĩ phát triển lớn mạnh là nhờ đức Tổ sư khai sáng. Và các hàng đệ tử kế tục đã biết vận dụng giáo lý Khế cơ, Khế thời, Khế xứ, Khế lý của Đức Thế tôn, một cách uyển chuyển vào thực tế đời sống xã hội ở Việt Nam và ở một số nước khác. Với sự dung hợp đặc trưng của hai truyền thống Phật giáo, đã tồn tại và phát triển lâu đời là Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Đại thừa Phật giáo Nam truyền và Phật giáo Bắc truyền. Sự dung hợp này thể hiện ở nhiều phương diện, nhiều khía cạnh khác nhau, mà ở đây bước đầu chúng tôi chỉ xin nêu những điểm nổi bật và dễ nhận thấy mà thôi. Từ thực tiễn hoạt động hoằng dương chánh pháp của Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam, có thể rút ra một số đặc điểm, chúng tôi tạm cho đó là sự hấp dẫn của hệ phái Phật giáo này như sauMột là, hình ảnh của đoàn du tăng khất thực hóa duyên, sống đời phạm là yếu tố đầu tiên tạo nên sức hấp dẫn của Hệ phái. Về vật dụng tùy thân, Tổ sư Minh Đăng Quang đã chọn hình thức “tam y nhất bát”. Hình thức pháp phục và bình bát của đoàn du tăng Khất sĩ Việt Nam giống như hình ảnh tăng đoàn đi khất thực hóa duyên thời Đức Phật còn tại thế. Chính Tổ sư đã tự mình phát nguyện thọ giới Tỳ-kheo, giữ gìn và thực hành 250 giới cấm theo quy định về giới luật của Phật giáo Bắc truyền theo bộ luật Đàm Vô Đức, và lấy pháp hiệu Minh Đăng Quang mà không phải do một vị thầy Nam truyền hay Bắc truyền nào đặt pháp hiệu, dù trước đó, lúc còn trai trẻ, Ngài đã từng xuất gia tu học tại ảnh các vị Khất Sĩ ôm bình bát đi khất thực với dáng hạnh trang nghiêm, nhiếp tâm, nguyện cầu và hoá độ chúng sinh vào mỗi buổi sáng và mỗi ngày chỉ ăn một bữa. Tức thọ thực vào giờ ngọ là một đặc trưng của Phật giáo Nguyên thủy, mà lúc Đức Thế tôn còn tại thế, Ngài đã quy định trong giới luật mà các vị khất sĩ trong tăng đoàn phải thực hiện. Quy định này hiện nay Phật giáo Nam truyền/Nam tông Theravàda vẫn thực hành. Nhưng khác với Phật giáo Nam truyền ở chỗ, nếu Phật giáo Nguyên thủy khi xưa và Phật giáo Nam truyền hôm nay, tín đồ Phật tử dâng cúng thức ăn gì thì độ thức ăn đó, không phân biệt chay mặn, trong khi đó giới luật của Hệ phái Khất sĩ quy định tu sĩ phải ăn chay. Đây là cách tiếp thu giới luật của Phật giáo Bắc nguồn gốc, thuật ngữ Bhikkhu Pali hay Bhiksu Sançrit được phiên âm là Tỳ Kheo, Tỷ kheo, Tỳ khưu, Tỳ khâu, Tỷ khâu là khái niệm của Bà-la-môn giáo, dùng để chỉ cho giai đoạn thứ tư tức “du hành kỳ” trong cuộc đời của tu sĩ Bà-la-môn. Trong đó, người chủ gia đình rời bỏ đời sống gia đình, sống bằng hạnh khất thực và tìm cầu chân lý giải thoát. Trong Phật giáo, thuật ngữ này dùng để chỉ tăng sĩ Phật giáo, người từ bỏ cuộc sống thế tục, thụ lĩnh giới luật, tương đương với thuật ngữ Sa môn thuật ngữ này cũng của Bà-la-môn giáo.Đúng ra, thuật ngữ Bhikkhu hay Bhiksu nên định danh là Khất sĩ. Gọi là Khất sĩ bởi vì theo quan niệm của Đức Thế tôn, với người xuất gia trên thì khất pháp xin pháp từ Đức Phật để tu thân dưỡng trí, dưới thì đến chỗ nhân gian thế tục để khất thực xin ăn nuôi thân. Cũng cần lưu ý là người hành khất người ăn xin, ăn mày ở thế gian chỉ xin cơm áo nuôi sống bản thân, không xin pháp và không hoá độ ai cả nên không được gọi là Tỳ-kheo Khất sĩ. Khi Đức Phật Thích Ca còn tại thế, Tăng Ni đạo Phật đều sống bằng khất thực hằng độ Khất sĩ hiện nay được duy trì ở các nước Phật giáo Nam truyền như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Miên, Việt Nam... Mục đích của việc khất thực là tạo ra mối liên hệ thân thiết giữa tu sĩ và dân chúng. Tạo cơ hội cho tu sĩ hướng dẫn dân chúng Phật tử về mặt đạo đức và tâm linh, còn dân chúng thì có cơ hội cúng dường tu sĩ, tạo được phước đức cho bản thân mình, hay kết duyên lành với việc tu hành. Người xuất gia khi đã thọ Cụ túc giới 250 giới đối với nam, 348 giới đối với nữ thì phải nương theo Tứ y pháp. Trong đó, có Y theo pháp, nghĩa là Tỳ-kheo Khất sĩ phải bỏ nhà cửa gia sản, đi du hóa trong nhân gian, xin ăn nuôi thân, tùy nơi mà giáo hóa, độ kẻ có duyên phúc và độ người chưa tin, giúp họ có niềm tin Phật Thánh và nhân quả. Đó là xin ăn để nuôi thân xác và có dịp để độ người. Còn xin pháp để nuôi huệ mạng, nghĩa là cầu xin pháp Phật, nối liền trí tuệ công đức thành tựu của Phật với tâm của mình, ấy là độ mình. Đủ hai điều kiện này mới được gọi là Tỳ-kheo Khất sĩ.Xem thêm Cặp Siêu Quậy Thiếu Lâm Tiểu Tử Bất Ngờ Tái Hợp Sau 27 Năm, Còn Hôn Nhau Thắm Thiết Làm Fan Suýt "Đẩy Thuyền"Hai là, tôn chỉ và chí nguyện của Hệ chỉ và chí nguyện của Hệ phái do đức Tổ sư khai sáng đã nêu ra, theo thiển ý, đây là yếu tố quan trọng thứ hai để tạo nên sức hấp dẫn lớn của Đạo Phật Khất sĩ. Tôn chỉ và chí nguyện này cũng chính là giáo lý căn bản của Hệ phái Đạo Phật Khất sĩ, mà tư tưởng giáo lý này thể hiện trong các bài giảng pháp của đức Tổ sư, sau này có ghi lại đầy đủ trong bộ Chơn lý. Khi mới mở đạo, Tổ sư Minh Đăng Quang đã nêu lên tôn chỉ và chí nguyện “Y bát chơn truyền; Nối truyền Thích Ca chánh pháp”. Tư tưởng này có được là nhờ Tổ sư Minh Đăng Quang sau nhiều năm tu học tại Campuchia, và tự nghiên cứu Tam tạng kinh điển của hai hệ phái Nam truyền và Bắc truyền tại Việt Nam. Cùng sau này nhờ Thiền quán mà Ngài đã đắc pháp, từ đó Ngài đã chắt lọc các tư tưởng chính yếu trong giáo pháp của hai truyền thống Phật giáo này để nêu lên phương pháp hành trì tu tập của hệ phái. Tôn chỉ và chí nguyện này đã góp phần làm sống lại những hình ảnh đoàn du tăng khất thực, và tư tưởng giải thoát của đạo Phật Nguyên thủy từ thời đức Phật còn tại thế, sống đời phạm hạnh, cầu giải thoát. Chính Tổ sư Minh Đăng Quang đã có bài thi kệ chép trong bộ Chơn lý của Ngài“Nhất bát thiên gia phạn,Cô thân vạn lý cùng sanh tử lộ,Khất hoá độ xuân thu”.Tạm dịch Một bát cơm ngàn nhà,Một mình muôn dặm dứt đường sanh tử,Xin pháp, độ ngày qua. NCL dịchBộ Chơn lý là sự tập hợp những bài thuyết giảng của Ngài đã giảng dạy cho hàng đệ tử với 69 bài giảng chứa đựng nội dung về kinh, luật và luận. Những bài giảng này vừa tóm gọn được tinh hoa của tư tưởng triết lý đạo Phật, rút ra cách nhìn nhận của Ngài về vũ trụ quan, công lý vũ trụ, nhân sinh quan, lại vừa chứa đựng những giáo pháp cao siêu, huyền diệu của Đức Phật. Trên cơ sở đó, Ngài đề ra những phương pháp tu tập như du hoá, khất thực, thiền định, trên cơ sở giáo lý Tứ diệu đế, Thập nhị nhân duyên, Tam vô lậu học, Bát chánh đạo… Những bài thuyết giảng của Ngài được giảng bằng một ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, rõ ràng, cụ thể, không dùng ẩn ngữ. Với phương pháp diễn giải trực tiếp và lập luận rõ ràng vững chắc theo kiểu Tam đoạn luận, phù hợp với tâm lý và tính cách mộc mạc, giản dị của người dân Nam bộ nói riêng, của người Việt Nam nói những bài pháp của Tổ sư, Ngài đã kế thừa những tư tưởng phá mê khai ngộ, đoạn trừ tà kiến, phủ nhận uy quyền, thế lực của đấng Phạm Thiên, Đế Thích hay bất kỳ vai trò của thần thánh nào, như lời Đức Phật đã dạy. Tư tưởng đó đề cao vai trò của mỗi cá nhân con người. Tất cả mỗi người phải tự mình nỗ lực tinh cần tu tập, “tự mình thắp đuốc mà đi”, tức mỗi người là ngọn đèn của chính mình, tự mình quyết định sự sống của mình bằng con đường Chánh đạo như lời Đức Phật đã thêm Thế Nào Là Tình Yêu Chân Thành Là Gì, Dấu Hiệu Nhận Biết Của Một Người Chân ThànhChính sự giản dị, mộc mạc trong cách giảng thuyết cho đệ tử, cho tín đồ Phật tử ai nghe cũng hiểu được Phật pháp và thanh tịnh trong phương pháp tu hành, trong sở đắc. Nên chỉ trong trong một thời gian rất ngắn, từ lúc khai lập Hệ phái 1944 đến lúc Ngài vắng bóng 1954, tức chỉ trong 10 năm, vậy mà Ngài đã để lại cho môn đồ kho tàng tri thức tâm linh cao vời, tạo được gốc rễ truyền đạo vững vàng mà bao thế hệ truyền thừa sau này phải thầm cảm phục, tri ân, tưởng nhớ. Đây là một đặc điểm nổi bật nhất và đáng tôn vinh nhất và cũng là niềm tự hào của cả Hệ phái. Đây cũng chính là cơ sở để sau khi Ngài vắng bóng, các hàng đệ tử kế tục nối truyền, và nhất là đến hôm nay, Đạo Phật Khất sĩ đã hiện diện trên khắp tất cả các châu lục mà ở trước có giới thiệu qua.
Nhờ chủ trương sử dụng nghi thức tụng niệm thuần Việt với thể loại thơ ca Việt Nam, Hệ phái Khất sĩ đã phát triển nhanh trong cộng đồng Nam bộ. Tuy nhiên, nghi thức tụng niệm của Tăng giới và Ni giới của Hệ phái Khất sĩ vẫn chưa thống nhất, với nhiều dị biệt. Điều này phần nào làm giảm đi sức mạnh thống nhất nội bộ của Hệ phái Khất sĩ. Tôi cho rằng một khi Tăng Ni và Phật tử Hệ phái Khất sĩ đều sử dụng thống nhất một NTTN, sức mạnh nội tại của Hệ phái sẽ mạnh hơn, thuyết phục hơn và nhập thế hiệu quả hơn. “NGHI THỨC TỤNG NIỆM” CỦA HỆ PHÁI KHẤT SĨ TẠI VIỆT NAM Thích Nhật Từ Phó Viện trưởng – Tổng thư ký Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam I. DẪN NHẬP Phạm vi nghiên cứu của bài này là “Nghi thức tụng niệm” viết tắt là NTTN của Hệ phái Khất sĩ Tăng trong sự so sánh với các nghi thức tụng niệm của Phật giáo Bắc tông. Bài viết chủ yếu khái quát về các nghi thức thông dụng trong Hệ phái Khất sĩ, những điểm tương đồng và dị biệt giữa NTKS với các NTTN thuộc các hệ phái Phật giáo Bắc tông khác. Sau đây là các khái niệm được mặc định trong bài viết này i Nghi thức tụng niệm viết tắt là NTTN chỉ chung cho các nghi thức thuộc bất kỳ hệ phái Phật giáo nào. Tùy theo từng ngữ cảnh, khái niệm này có thể chỉ cho nghi thức của Bắc tông, hoặc của Khất sĩ, hoặc của Nguyên thủy. ii Nghi thức Khất sĩ viết tắt là NTKS chỉ cho NTTN của Tăng giới Hệ phái Khất sĩ và ở vài ngữ cảnh khác, chỉ chung cho các nghi thức tụng niệm của hệ phái Khất sĩ, bao gồm quyển Kinh Tam bảo và Kinh xưng tụng Tam bảo do NT Huỳnh Liên soạn, được Ni giới Hệ phái Khất sĩ sử dụng tại các Tịnh xá dành cho Ni giới, iii Nghi thức Bắc tông viết tắt là NTBT chỉ chung cho các NTTN được sử dụng trong các hệ phái và tự viện thuộc Phật giáo Bắc tông của Việt Nam trong nước và nước ngoài. iv Nghi thức Nguyên thủy viết tắt là NTNT chỉ chung cho các nghi thức tụng niệm của Phật giáo Nguyên thủy Theravada bao gồm các nghi thức đầu tiên do Hòa thượng Hộ Tông soạn dịch cho đến các nghi thức mới tại Việt Nam và hải ngoại trong hai thập niên trở lại đây. II. CẤU TRÚC CỦA NGHI THỨC KHẤT SĨ Có thể chia NTKS thành bốn nhóm chính i Nghi thức sám hối,[1] ii Nghi thức cầu an,[2] iii Nghi thức cầu siêu,[3] iv Các nghi thức khác bao gồm a Nghi thức cúng dường,[4] b Kinh cúng cửu huyền,[5] c Nghi thức thọ trì,[6] và d Các kệ tụng.[7] Các Nghi thức sám hối, Nghi thức cầu an và Nghi thức cầu siêu có cấu trúc giống nhau gồm a Phần dẫn nhập, b Phần chính kinh, c Phần hồi hướng.[8] Trong nhóm “Các nghi thức khác” đơn giản nhất là “Kệ tụng” chỉ gồm 14 kệ, phần lớn theo thể song thất lục bát; riêng kệ 2[9] theo thể ngủ ngôn, các kệ 13 và kệ 14 theo thể lục bát; kệ 12 phần đầu theo thể lục bát, phần sau là bốn kệ theo thể thất ngôn tứ tuyệt và bài 6[10] là văn xuôi. 1 Phần dẫn nhập Về thể loại, phần dẫn nhập của NTKS gồm các bài thơ, mỗi bài gồm 4 câu, có khi là thất ngôn đường luật và có khi là song thất lục bát. Về trật tự, các bài kệ trên được sắp xếp theo thứ tự i “Dâng hương” [11] bằng thể thất ngôn đường luật, ii “Lễ Phật,”[12] iii Lễ Pháp,”[13] iv “Lễ Tăng”[14] cả ba đều bằng thể song thất lục bát, v “Kỉnh nguyện,”[15] bằng văn xuôi, vốn tương đương phần Nguyện hương trong các NTBT, vi Khai kinh kệ, bằng thể thất ngôn đường luật, vốn diễn thơ từ bài chữ Hán trong các NTBT.[16] 2 Phần chính kinh NTKS chỉ có vỏn vẹn 6 bài chính kinh. Trong NTKS, “Nghi thức sám hối” có chính kinh là Hồng danh bửu sám,[17] “Nghi thức cầu an” có chính kinh là “Kinh Phổ Môn”[18] và “Nghi thức cầu siêu” có ba chính kinh là “Kinh Vu-lan-bồn,[19] Kinh báo hiếu phụ mẫu trọng ân,[20] Kinh A-di-đà[21] và Kinh Vô ngã tướng.”[22] Trong “Nghi thức cúng dường” và “Kinh cúng cửu huyền”, bài chính kinh được thay bằng “bài kệ chính của nghi thức”, chẳng hạn, trong “Nghi thức cúng dường” thì có bài “Cúng dường Tam bảo,”[23] và trong “Kinh cúng cửu huyền thất tổ,” thì có bài “Cúng cửu huyền thất tổ.”[24] 3 Phần hồi hướng Trong NTKS, phần Hồi hướng thường ngắn gọn hơn các NTBT. Phần Hồi hướng trong Nghi thức cầu an gồm có Bát-nhã Tâm kinh, Thập nguyện, Hồi hướng và Tam quy;[25] Lời nguyện cuối Phục nguyện trong NTBT được thay thế bằng bài “Lời khuyên nhắc.”[26] Phần Hồi hướng trong Nghi thức cầu siêu gồm có Bát-nhã Tâm kinh, Nguyện vãng sanh, Tán thán Phật, Sám thập phương, Thập nguyện, Hồi hướng và Tam quy; không có phục nguyện. Trong Nghi thức sám hối, phần hồi hướng là bài “Hồi hướng”[27] gồm 12 câu, diễn thơ từ bài nguyên tác chữ Hán. Trong Nghi thức thọ trì thì có các bài kệ “Xưng tụng Phật bảo, xưng tụng Pháp bảo, xưng tụng Tăng bảo, quy y Tam bảo và thọ trì ngũ giới.”[28] Nhìn chung, ngoài Nghi thức cầu siêu ra, các Nghi thức cầu an và Nghi thức sám hối trong NTKS, có phần Hồi hướng gần giống với các NTBT, dĩ nhiên là ngắn gọn hơn. III. NHỮNG TƯƠNG ĐỒNG GIỮA NTKS VỚI CÁC NTBT 1 Sử dụng cùng kinh văn và bản dịch Ba Nghi thức căn bản trong Phật giáo Bắc tông được NTKS sử dụng cộng thông bao gồm Nghi thức sám hối, Nghi thức cầu an và Nghi thức cầu siêu. Phần chính kinh của ba nghi thức nêu trên sử dụng lại bản dịch của NTBT, chẳng hạn, Hồng danh bửu sám,[29] sử dụng bản dịch tiếng Việt quen thuộc, các chính kinh còn lại đều sử dụng bản dịch của HT. Thích Huệ Đăng, bao gồm Phẩm Phổ Môn Kinh Diệu pháp liên hoa,[30] Kinh Vu-lan-bồn,[31] Kinh báo hiếu phụ mẫu trọng ân,[32] Kinh A-di-đà.[33]Riêng Kinh Vô ngã tướng[34]sử dụng cộng thông với NTNT,[35] Nghi thức tụng niệm đại toàn,[36] cũng giống như Kinh Phật cho người tại gia,[37] Kinh Phật cho người mới bắt đầu[38] và Nghi thức tụng niệm.[39] 2 Tương đồng về phần Dẫn nhập và Hồi hướng Các yếu tố cộng thông khác được tìm thấy trong NTKS là sử dụng lại bản dịch Việt của các NTBT bao gồm i Bài “Dâng hương”[40] là bài kệ bốn câu, ba câu đầu giữ nguyên Hán Việt, câu cuối dịch ra tiếng Việt.[41] ii Sử dụng lại bài dịch của các NTBT[42] gồm có bài “Khai Kinh kệ,”[43] bài “Sám nguyện,”[44] và bài “Sám cầu siêu.”[45] iv Trong phần Hồi hướng, các mục sau đây sử dụng cộng thông với các NTBT, bao gồm Bát-nhã Tâm kinh,[46] Tán thán Phật,[47] Sám thập phương,[48] Thập nguyện,[49] Hồi hướng,[50] và Tự quy y.[51] IV. NHỮNG DỊ BIỆT GIỮA NTKS VỚI CÁC NTBT 1 Những đóng góp mới Trong NTKS, các đóng góp mới có thể được chia làm ba loại các nghi thức mới, các kệ sám mới và các kệ sám trong phần dẫn nhập và hồi hướng được dùng trong các nghi thức thuộc NTKS. i Các Nghi thức mới bao gồm a Nghi thức cúng dường[52] trong Trai hội tại gia hoặc Tịnh xá, b Nghi cúng cửu huyền,[53] c Nghi thức thọ trì tại Tịnh xá hoặc tư gia mỗi đêm.[54] ii Các bài kệ sám mới bao gồm 13 bài trong phần Kệ tụng[55] như Kệ an vị Phật, Kệ phóng sinh, Kệ thí phát, Kệ thỉnh pháp sư, Kệ cúng dâng Tịnh xá, Kệ cúng dâng Y bát, Kệ nhớ ơn Phật, Kệ cầu nguyện hòa bình, Kệ thuyền trí tuệ, Kệ chúc mừng chánh pháp, Kệ tán tụng công đức giáo chủ, Kệ nguyện về cõi Phật, Kệ khuyên đừng giết thú.[56] iii Các bài kệ trong phần dẫn nhập bao gồm Kệ dâng hương,[57] Kệ lễ Phật, lễ Pháp, lễ Tăng,[58] Hồi hướng chung,[59] Kệ xưng tụng Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo,[60] Kệ quy y Tam bảo và thọ trì ngũ giới,[61] Kệ pháp quy giới, pháp tịnh tâm,[62] Kệ sám hối Tam bảo,[63] Kệ sám hối tam nghiệp,[64] Kệ sám hối,[65] Kệ cầu nguyện chung,[66] Kệ cầu an,[67] Kệ cầu nguyện,[68] Kệ phổ nguyện,[69] Kệ cầu phước, cầu lộc,[70] Kệ cầu thọ,[71] Kệ thái bình,[72] Kệ cầu siêu,[73] Kệ giác linh tống táng,[74] và Sám từ bi.[75] 2 Về số lượng nghi thức Số lượng các nghi thức trong NTKS ít hơn so với Nghi thức tụng niệm của Phật giáo Bắc tông. Các nghi thức chính trong NTKS bao gồm Nghi thức cúng dường, Nghi cúng cửu huyền, Nghi thức cầu an, Nghi thức cầu siêu, Nghi thức sám hối. Nghi thức tụng niệm[76] trong các Chùa Bắc tông thông thường bao gồm 13 nghi thức sau đây Nghi thức Công phu khuya, Nghi thức Cúng ngọ, Nghi thức Công phu chiều, Nghi thức cầu an, Nghi thức cầu siêu, Nghi thức sám hối, Nghi thức an vị Phật, Nghi thức phóng sinh, Nghi thức thỉnh chuông, Nghi thức quy y Tam bảo, Nghi thức xuất gia, Nghi thức hôn nhân, Nghi thức Bố-tát 3 Về ngôn ngữ Nếu các NTBT có khuynh hướng sử dụng âm Hán Việt,[77] trong khi các Nghi thức Phật giáo Nguyên thủy sử dụng Pali – Việt[78] thì các nghi thức tụng niệm của Hệ phái Khất sĩ sử dụng tiếng Việt, chủ yếu là thi ca với các thể loại song thất lục bát chiếm đại đa số, lục bát, thất ngôn tứ tuyệt và ngũ ngôn. Nhờ sử dụng thi ca diễn dịch kinh điển và kệ tụng, NTKS dễ nhớ, dễ thuộc và dễ truyền bá.[79] Đây là điểm mạnh của Hệ phái Khất sĩ, nhờ đó, quần chúng Phật tử, nhất là giới bình dân ở miền Nam dễ dàng chấp nhận Hệ phái Khất sĩ hơn. 4 Về thần chú Nghi thức tụng niệm của Hệ phái Khất sĩ Tăng[80] không sử dụng các thần chú của Phật giáo Mật tông trong các nghi thức tụng niệm, bao gồm Chú đại bi, chú vãng sinh và các thần chú khác.[81] Nghi thức mang phong cách này ít lạc dẫn người đọc tụng theo hướng “mầu nhiệm” cầu gì được đó, vốn trái với luật nhân quả được đức Phật giảng dạy. V. VÀI NHẬN XÉT 1 Là một Hệ phái Phật giáo mới tại miền Nam, tồn tại chưa tròn 70 năm,[82] sự phát triển của Hệ phái Khất sĩ là đáng trân trọng Hơn 500 Tịnh xá và 5000 Tăng Ni trên toàn nước Việt Nam. So với Hệ phái Phật giáo Nguyên thủy Việt[83] tồn tại 76 năm 1938-2014 tại miền Nam, Hệ phái Khất sĩ phát triển nhanh hơn, phổ cập đến nhiều thành phần xã hội Việt Nam từ Quảng Trị cho đến Cà Mau. Đây có thể được xem là mô hình truyền đạo có hiệu quả đối với giới quần chúng, đáng được các sơn môn pháp phái khác ở Việt Nam tham khảo và rút kinh nghiệm, để việc nhập thế, làm đạo trong giai đoạn toàn cầu hóa được hiệu quả hơn. 2 Nhờ chủ trương sử dụng nghi thức tụng niệm thuần Việt với thể loại thơ ca Việt Nam, Hệ phái Khất sĩ đã phát triển nhanh trong cộng đồng Nam bộ. Tuy nhiên, nghi thức tụng niệm của Tăng giới và Ni giới của Hệ phái Khất sĩ vẫn chưa thống nhất, với nhiều dị biệt. Điều này phần nào làm giảm đi sức mạnh thống nhất nội bộ của Hệ phái Khất sĩ. Tôi cho rằng một khi Tăng Ni và Phật tử Hệ phái Khất sĩ đều sử dụng thống nhất một NTTN, sức mạnh nội tại của Hệ phái sẽ mạnh hơn, thuyết phục hơn và nhập thế hiệu quả hơn. 3 Trong NTKS chưa có sự phân biệt sự khác nhau giữa khái niệm “Kinh” và “Kệ”. Khuynh hướng đồng hóa khái niệm “Kệ” với “Kinh” xuất hiện trong NTKS, chẳng hạn, Kinh cúng cửu huyền,[84] Kinh cầu an,[85] Kinh cầu nguyện,[86] Kinh phổ nguyện,[87] Kinh cầu phước cầu lộc,[88] Cầu cầu thọ,[89] Kinh cầu siêu,[90] Kinh từ bi,[91] Kinh an vị Phật,[92] và Kinh Phóng sinh.[93] “Kinh” vốn chỉ cho những lời Phật dạy, trong khi “Kệ” là những bài thơ đạo của Tăng sĩ diễn giải về triết lý Phật nói chung, hoặc một khái niệm Phật học nói riêng. Do đó, trong các trường hợp nêu trên, nên đổi chữ “Kinh” thành chữ “Kệ” thì thích hợp hơn, giúp cho người đọc tụng dễ phân biệt đâu là lời Kinh Phật dạy và đâu là thi kệ của người biên soạn nghi thức, hoặc được người biên soạn tuyển chọn, đưa vào. 4 Các chính kinh trong NTKS chỉ gồm 6 bài như Kinh Phổ Môn, Kinh A-di-đà, Kinh Vu-la-bồn, Kinh báo hiếu phụ mẫu trọng ân và Kinh Vô ngã tướng, trong đó 5 bài kinh đầu thiên về Tịnh độ Tông, trong khi bài cuối cùng giới thiệu triết lý vô ngã. Đây là khuynh hướng chung của các NTBT từ trước đến nay, ngoài trừ, Nghi thức Làng Mai đại toàn và các nghi thức do Chùa Giác Ngộ xuất bản. Các bài kinh về triết học, các bài kinh về đạo đức, các kinh về xã hội và các kinh về thiền chưa được giới thiệu trong NTKS. Đây là các Kinh nên được bổ sung nhằm giúp cho giới thọ trì, đọc, tụng có thể hiểu hệ thống và toàn diện lời dạy minh triết của Phật. Sài Gòn, ngày 02 tháng 3 năm 2014 SÁCH THAM KHẢO CHỌN LỌC I. BẢN VĂN SỬ DỤNG Hệ phái Khất sĩ, Nghi thức tụng niệm, NXB Tôn giáo, Hà Nội, 2012. Thích Nữ Huỳnh Liên, Kinh Tam bảo và Kinh xưng tụng Tam bảo ấn bản kỳ 9 do NT Huỳnh Liên soạn, NXB Tôn giáo, Hà Nội, 2008. II. BẢN VĂN THAM KHẢO Hội đồng Giáo thọ Đạo tràng Mai thôn soạn dịch, Nghi thức tụng niệm đại toàn, NXB Lá Bối, Pháp, 1994, 2000. Thích Thiện Thanh soạn dịch, Nghi thức tụng niệm hằng ngày của hai giới xuất gia và tại gia, Chùa Phật Tổ, Hoa Kỳ, 1998. Thích Minh Thời biên tập, Kinh Nhật tụng, NXB Tôn Giáo, 2002. Hộ Tông tỳ khưu soạn dịch, Kinh Nhật Hành của người tại gia tu Phật, NXB Đông Phương, 2006. Hộ Tông tỳ khưu soạn, Kinh tụng, NXB Đông Phương, 2005. Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam soạn dịch, Nghi thức tụng niệm, Chùa Pháp Luân, Texas, USA, 2003. Tăng Định tỳ khưu hợp soạn, Kinh Nhật Tụng của cư sĩ, NXB. Tôn giáo, 1995, 2009. Viên Minh tỳ khưu, Kinh Nhật Hành - Pali Việt, NXB. Tôn giáo, 2011. Siêu Minh tỳ khưu, Kinh Nhật tụng Phật giáo Nguyên Thủy, NXB Tổng HCM, 2013. Đức Hiền, Tuyển tập Kinh tụng Nam Tông, NXB. Tôn giáo, 2013. Thích Nhật Từ biên tập, Kinh tụng hằng ngày, NXB. Tôn Giáo, 2002 ấn bản thứ nhất 1994. Thích Nhật Từ soạn dịch, Kinh Phật cho người tại gia, NXB. Hồng Đức, 2013. Thích Nhật Từ soạn dịch, Kinh Phật cho người bắt đầu, NXB. Hồng Đức, 2012. Thích Nhật Từ soạn dịch, Nghi thức tụng niệm, NXB. Phương Đông, 2011. [1] NTTN, 17-42. [2] NTTN, 43-75. [3] NTTN, 77-138. [4] NTTN, 3-5. [5] NTTN, 6-8. [6] NTTN, 9-16. [7] NTTN, 148-82. [8] Trong bài này, tôi sử dụng các khái niệm “dẫn nhập, chính kinh và hồi hướng” trong các nghi thức Bắc tông do tôi biên soạn, để mô tả các nội dung tương đương trong Hệ phái Khất sĩ, để độc giả dễ đối chiếu và so sánh. Tham khảo thêm i Thích Nhật Từ biên tập, Kinh tụng hằng ngày, NXB. Tôn Giáo, 2002 ấn bản thứ nhất 1994; ii Thích Nhật Từ soạn dịch, Kinh Phật cho người tại gia, NXB. Hồng Đức, 2013; iii Thích Nhật Từ soạn dịch, Kinh Phật cho người bắt đầu, NXB. Hồng Đức, 2012; iv Thích Nhật Từ soạn dịch, Nghi thức tụng niệm, NXB. Phương Đông, 2011. [9] NTTN, 149. [10] NTTN, 155 Lễ cúng dâng y bát. [11] NTTN, 9, 43, 76 [12] NTTN, 9, 43, 76 [13] NTTN, 9, 43, 76 [14] NTTN, 10, 44, 77 [15] NTTN, 44, 77 [16] Nguyên văn Hán Việt “Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ, ngã kim kiến văn đắc thọ trì, nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.” [17] NTTN, 30-41. [18] NTTN, 55-68. [19] NTTN, 91-99. [20] NTTN, 100-116. [21] NTTN, 117-130. [22] NTTN, 142-147. [23] NTTN, 4. [24] NTTN, 6-8. [25] NTTN, 71-5. [26] NTTN, 75. [27] NTTN, 42. Đang khi trong Nghi thức cúng dường tr. 3 và Nghi thức thọ trì của NTKS bài dâng hương là một sáng tác mới, súc tích và hay “Khói hương xông thấu mấy từng xanh/ Rốt ráo tâm con bổn nguyện lành/ Trên khói hương này xin Phật ngự/ Chứng minh đệ tử tấc lòng thành.” [28] NTTN, 10-13. [29] NTTN, 30-41. [30] NTTN, 55-68. [31] 91-97. [32] 100-116. [33] 117-130. [34] 143-47, do NT Huỳnh Liên diễn thơ từ bản dịch tiếng Việt của HT. Thích Minh Châu. [35] Tham khảo các quyển i Hộ Tông tỳ khưu soạn dịch, Kinh Nhật Hành của người tại gia tu Phật, NXB Đông Phương, 2006; ii Tăng Định tỳ khưu hợp soạn, Kinh Nhật Tụng của cư sĩ, NXB. Tôn giáo, 1995, 2009; iii Tỳ khưu Siêu Minh, Kinh Nhật tụng Phật giáo Nguyên Thủy, NXB Tổng HCM, 2013; iv Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam soạn dịch, Nghi thức tụng niệm, Chùa Pháp Luân, Texas, USA, 2003. [36] Hội đồng Giáo thọ Đạo tràng Mai thôn soạn dịch, Nghi thức tụng niệm đại toàn, NXB Lá Bối, Pháp, 1994, 2000. [37] Thích Nhật Từ soạn dịch, Kinh Phật cho người tại gia, NXB. Hồng Đức, 2013. [38] Thích Nhật Từ soạn dịch, Kinh Phật cho người bắt đầu, NXB. Hồng Đức, 2012. [39] Thích Nhật Từ soạn dịch, Nghi thức tụng niệm, NXB. Phương Đông, 2011, tr. xx + 390. [40] NTTN, 43, 76. Nguyên văn Hán Việt là “Giới hương, định hương dữ huệ hương/ Giải thoát, giải thoát tri kiến hương/ Quang minh vân đài biến pháp giới/ Cúng dường thập phương Tam bảo tiền.” [41] Bài dâng hương của Nghi thức Khất sĩ “Giới hương, định hương dữ huệ hương/ Giải thoát, giải thoát tri kiến hương/ Quang minh vân đài biến pháp giới/ Cúng dường Tam bảo khắp mười phương.” [42] Hãy tham khảo i Thích Thiện Thanh soạn dịch, Nghi thức tụng niệm hằng ngày của hai giới xuất gia và tại gia, Chùa Phật Tổ, Hoa Kỳ, 1998, và Thích Minh Thời biên tập, Kinh Nhật tụng, NXB Tôn Giáo, 2002. [43] NTTN, 45, 77. [44] NTTN, 86-8. [45] NTTN, 88-90. [46] NTTN, 71-2, 131-2. [47] NTTN, 134-5. [48] NTTN, 135-6. [49] NTTN, 73, 136-7. [50] NTTN, 73-4, 137-8. [51] NTTN, 74-5, 138. [52] NTTN, 3-5. [53] NTTN, 6-8. [54] NTTN, 9-16. [55] NTTN, 148-82. [56] Phần lớn trong NTKS gọi là Kinh, tôi đổi lại Kệ, để phân biệt đây là các bài thi kệ của chư tôn đức Khất sĩ, chứ không phải lời dạy của đức Phật như trong các Kinh. [57] NTTN, 3, 9. [58] NTTN, 3-4, 9-10, 43-4, 76-7. [59] NTTN, 8, 13. [60] NTTN, 10-11. [61] NTTN, 12-3. [62] NTTN, 14-5. [63] NTTN, 17-8. [64] NTTN, 18-23. [65] NTTN, 23-7. [66] NTTN, 28-9. [67] NTTN, 34-6. [68] NTTN, 46-7. [69] NTTN, 47-8. [70] NTTN, 48-9. [71] NTTN, 49-50 [72] NTTN, 51-4. [73] NTTN, 78-9. [74] NTTN, 79-86. [75] NTTN, 139-41. [76] Xem thêm các nghi thức sau đây để thấy sự khác biệt về phân loại, thể loại nghi thức trong các Chùa Bắc tông tại Việt Nam i Thích Thiện Thanh soạn dịch, Nghi thức tụng niệm hằng ngày của hai giới xuất gia và tại gia, Chùa Phật Tổ, Hoa Kỳ, 1998, ii Thích Minh Thời biên tập, Kinh Nhật tụng, NXB Tôn Giáo, 2002, và iii Thích Nhật Từ soạn dịch, Nghi thức tụng niệm, NXB. Phương Đông, 2011. [77] Cụ thể như Thích Minh Thời biên tập, Kinh Nhật tụng, NXB Tôn Giáo, 2002. [78] Cụ thể như i Hộ Tông tỳ khưu soạn dịch, Kinh Nhật Hành của người tại gia tu Phật, NXB Đông Phương, 2006; ii Hộ Tông tỳ khưu soạn, Kinh tụng, NXB Đông Phương, 2005; iii Tăng Định tỳ khưu hợp soạn, Kinh Nhật Tụng của cư sĩ, NXB. Tôn giáo, 1995, 2009; iv Viên Minh, Kinh Nhật Hành - Pali Việt, NXB. Tôn giáo, 2011; v Đức Hiền, Tuyển tập Kinh tụng Nam Tông, NXB. Tôn giáo, 2013, và vi Tỳ khưu Siêu Minh, Kinh Nhật tụng Phật giáo Nguyên Thủy, NXB Tổng HCM, 2013; vii Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam soạn dịch, Nghi thức tụng niệm, Chùa Pháp Luân, Texas, USA, 2003. [79] Phật giáo Hòa Hảo và Tứ Ân Hiếu nghĩa cũng sử dụng thi ca để chuyển tải triết lý và truyền đạo, rất ăn khách và thành công ở miền Nam Việt Nam. [80] Nghi thức tụng niệm Ni thường gọi là Kinh Tam bảo và Kinh xưng tụng Tam bảo tr. V do NT. Huỳnh Liên biên soạn vẫn sử dụng thần chú đại bi, như phần lớn các nghi thức tụng niệm của các trường phái Phật giáo Bắc tông khác. [81] Hơn 20 quyển nghi thức do tôi biên soạn quan trọng nhất là Kinh tụng hằng ngày, Kinh Phật cho người tại gia, Kinh Phật cho người bắt đầu và Nghi thức tụng niệm không sử dụng các thần chú Mật tông. [82] Năm 2014, lãnh đạo Hệ phái Khất sĩ tưởng niệm 60 năm ngày vắng bóng Tổ sư Minh Đăng Quang, người khai sáng Hệ phái Khất sĩ. Hội thảo này là một phần trong các chương trình tưởng niệm. [83] Khái niệm nhân học này nhằm chỉ cho Hệ phái Theravada của người Việt, vốn phân biệt với Phật giáo Nam tông Khmer của các nhà sư Campuchia tại miền Nam Việt Nam. Theravada Việt vốn tiếp nhận và chịu ảnh hưởng từ Phật giáo Theravada từ Tích Lan, mặc dù trong giai đoạn thành lập Theravada tại Sài Gòn, Hòa thượng Hộ Tông, nguyên là Tăng thống của phái này, chịu ảnh hưởng từ Phật giáo Campuchia. [84] NTTN, 6-8. [85] NTTN, 45-6. [86] NTTN, 46. [87] NTTN, 47-8. [88] NTTN, 48-9. [89] NTTN, 49-50. [90] NTTN, 78-9. [91] NTTN, 139-41, do NT. Huỳnh Liên sáng tác. [92] NTTN, 148-9. [93] NTTN, 149-50.
Đạo Phật Khất Sĩ chính thức ra đời vào năm 1947 trong vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, cụ thể là xuất phát tại Mỹ Tho, trong một môi trường ở đó các tôn giáo chính đã có cơ sở vững vàng, bên cạnh những hình thái tôn giáo khác cũng đang tích cực phổ biến giáo lý, thu hút tín đồ. Mặc dù xuất hiện khá muộn, nhưng Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam ĐPKSVN vẫn phát triển và hiện nay đã trở thành một hệ phái Phật giáo có tầm vóc không chỉ ở Việt Nam mà còn vươn ra có mặt ở hải ngoại. I. Sơ lược tiểu sử ngài Minh Đăng Quang Sáng lập Đạo Phật Khất Sĩ ở Việt Nam là ngài Minh Đăng Quang, được nguời đời sau tôn xưng là Tổ sư Minh Đăng Quang. Ngài có thế danh là Nguyễn Thành Đạt, sanh năm 1923 tại quận Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long, con út của cụ Nguyễn Tồn Hiếu 1894-1968 và cụ bà Phạm Thị Tỵ tự Nhàn 1982-1924. Từ nhỏ, ngài đã sớm biết chuyên tâm niệm hương cúng Phật hàng ngày và ăn chay mỗi tháng mười ngày theo gương cha. Khi đi học, ngài lấy tên Lý Hườn. Tốt nghiệp bằng Sơ học của Pháp năm 13 tuổi, ngài không muốn học tiếp mà xin gia đình cho đi tu nhưng không được chấp thuận. Năm 1937, ngài tự ý rời nhà tìm thầy học đạo trên đất Campuchia. Ở đó, ngài được giới thiệu đến các chùa theo Phật giáo Nguyên thủy để học tiếng Khmer và đọc kinh Phật. Cuối năm 1941, ngài trở về Vĩnh Long rồi lên Sài Gòn làm việc. Ngài lập gia đình vào năm 1942, có được một người con gái, nhưng cả người bạn đời và con gái ngài đều bị bệnh và sớm qua đời. Vào năm 1943, ngài quyết chí lên vùng núi Thất Sơn ẩn tu. Trong năm 1944, ngài đến Mũi Nai ở Hà Tiên nhập định miên mật trong bảy ngày đêm và ngộ đạo tại nơi đây. II. Việc mở mang mối đạo khai sơn phá thạch Trong hai năm, từ 1944 đến 1946, ngài được một thiện nam thỉnh về ẩn tu tại chùa Linh Bửu ở làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho. Sau mùa an cư đầu tiên, ngài bắt đầu hướng dẫn các đệ tử hành đạo quanh vùng. Ngài thu nhận đệ tử rất chọn lọc. Trong năm 1947, ngài chỉ thu nhận bốn vị Tăng, sáu vị Ni và một chú điệu khoảng 10 tuổi. Từ năm 1948 trở đi, ngài thu nhận thêm nhiều người xuất gia; chư Tăng được ngài giáo huấn rất kỹ càng. Trong năm 1948, ngài hướng dẫn một đoàn khất sĩ du hành về Sài Gòn, tạo một dấu ấn nơi thủ phủ miền Nam lúc bấy giờ, rồi lại quay về hành đạo trong khu vực giữa hai nhánh sông Cửu Long, đẩy mạnh việc phát triển nền đạo. Để mở rộng việc truyền bá tư tưởng, ngài soạn bộ Chơn Lý gồm 69 tập, mở ra nhà in Pháp Ấn đặt tại Tịnh xá Ngọc Viên ở Vĩnh Long chuyên in các tập Chơn Lý do chính ngài sáng tác. III. Giáo lý của Đức Phật Thíchca trong ĐPKSVN Với phương châm “Nối truyền Thích-ca Chánh pháp”, Tổ sư Minh Đăng Quang gìn giữ truyền thống mà Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã vạch. Ngài dung hợp mọi tinh hoa của Phật giáo Nam tông và Phật giáo Bắc tông. Ngài đã thành tựu và lưu truyền cho hậu thế một dòng truyền thừa với ba pháp yếu quan trọng sau đây 1. Tinh thần viễn ly trong hạnh xuất gia; 2. Sự tinh tấn trong tu tập; 3. Tinh thần hoằng hóa độ sinh. Giáo pháp Khất Sĩ nêu cao việc quay về với cội nguồn tâm linh, quyết tâm thực hành Giới-Định-Tuệ. Đối với đời sống cộng đồng, người Khất sĩ cộng trú tu học trong những ngôi già-lam tịnh xá. Tổ sư nêu lên phương châm Nên tập sống chung tu học Cái SỐNG là phải sống chung; cái BIẾT là phải học chung, cái LINH là phải tu chung. Khi chọn Hoa sen và Ngọn đèn Chơn lý làm biểu tượng cho dòng pháp “Nối truyền Thích-ca Chánh pháp – ĐPKSVN”, Tổ sư Minh đăng Quang đã bày tỏ ý hướng đem Chánh pháp thanh tịnh như hoa sen của chư Phật để soi đường dẫn lối cho người hữu duyên bằng ngọn đèn chơn lý. Bằng những hình ảnh ẩn dụ, trong tập Chơn lý “Trên Mặt Nước”, Tổ sư Minh Đăng Quang nói đến lá sen, hoa sen và gương sen đều có chân gốc trong bùn nhưng đã vươn lên khỏi mặt nước và không hề dính bùn. Bùn nặng nề, dơ bẩn, rã rời nên chìm xuống đáy, tượng trưng cho sự xấu ác tội lỗi của con người vị kỷ. Nước trôi chảy, tượng trưng cho xã hội thanh thoát tùy duyên. Sen vượt lên cao tượng trưng bậc xuất gia, người Khất sĩ… có hành động như lá sen, có lời nói như hoa sen, có tư tưởng như gương sen. Gốc sen còn ở trong bùn, tượng trưng người tu còn phải nương nhờ trần thế, xin ăn xin mặc để nuôi thân tu học, nhưng tâm trí đã vượt lên trên sự xấu ác. Sen nhờ bùn nuôi dưỡng, sen cũng trả ơn bằng cách hứng chịu nắng mưa sương gió che chở cho nước và đất trước những động chạm từ bên ngoài. Người tu cũng đền trả cho đời bằng sự hiền lương trong lời nói thuần hòa, việc làm hiền thiện, tư tưởng trong sạch; đóng góp vào việc tạo nên nền tảng đạo đức cho xã hội. Biểu tượng Hoa sen và Ngọn đèn Chơn lý chính là lý tưởng của Tổ sư về một quốc độ có một cuộc sống an vui thuần thiện của tất cả mọi người; trong đó người tu phải thể hiện một đời sống nghiêm tịnh thanh thoát, thắp lên ngọn đèn chơn lý phụng hiến cho đời. Tổ sư Minh Đăng Quang còn nêu lên một điều rất đặc biệt mà ít người lưu ý, rằng “Việt Nam đạo Phật không có phân thừa”. Chính vì thế, giáo pháp của ĐPKSVN thể hiện rõ tư tưởng Đại thừa trong khi xiển dương việc thực hành một phần công hạnh của Phật giáo Nguyên thủy. Khác với Phật giáo Nam tông, thay vì dùng Tam tịnh nhục, ĐPKSVN chủ trương ăn chay, mở rộng tinh thần từ bi và sử dụng kinh điển Đại thừa như kinh Kim cương, Hoa nghiêm, Bát-nhã, Pháp hoa, Địa Tạng… trong việc truyền bá giáo lý của Đức Phật. Xuất thân ở Nam Bộ, ngài Minh Đăng Quang có phương pháp truyền đạo phù hợp với tâm lý người Nam Bộ, thuyết giảng Phật pháp bằng những hình ảnh sống động, sử dụng ngôn từ dễ hiểu, đi thẳng vào lòng người. Tuy sử dụng ngôn ngữ bình dân, ngài vẫn có những lập luận sâu sắc, thể hiện một trình độ chứng ngộ cao vời, khiến ngay cả những vị trí thức lớn tuổi cũng tâm cảm đón nhận quy kính. IV. Những đóng góp đầu tiên cho Phật giáo Đồng bằng Sông Cửu Long 1. Hình thành đoàn Du Tăng Khất Sĩ đầu tiên Rằm tháng Bảy năm Mậu Tý 1948, Tổ sư Minh Đăng Quang thành lập đoàn Du Tăng Khất Sĩ đầu tiên, gồm có 21 vị sư, xuất phát từ Vĩnh Long đi hành đạo lên vùng Sài Gòn-Gia Định-Chợ Lớn nay là và miền Đông Nam Bộ. Chuyến hành đạo này đã để lại nhiều dấu ấn tốt đẹp trong lòng người ở các nơi đoàn Du Tăng Khất Sĩ đi qua. Lần đầu tiên xuất hiện trong suốt hai ngàn năm lịch sử Phật giáo Việt Nam, đoàn Du Tăng Khất Sĩ là một đường lối hoằng pháp độc đáo của Tổ sư Minh Đăng Quang. Mô hình đoàn Du Tăng này cũng là một bản sao của đoàn Du Tăng thời Đức Phật. 2. Những ngôi tịnh xá đầu tiên Hình ảnh các vị Khất Sĩ khiêm cung đi xin ăn tu học đã khắc sâu vào lòng người dân niềm kính phục khiến họ quy ngưỡng. Từ đó, những ngôi tịnh xá hình bát giác lần lượt được dựng lên bởi các vị đệ tử tại gia của Tổ sư Minh Đăng Quang để các vị Khất Sĩ tạm trú hành đạo khắp các tỉnh thành Nam Bộ. Ngay trong năm 1947, ở thị xã Vĩnh Long, ngài cho dựng tại cầu Kinh Cụt ngôi tịnh xá đặt tên là Pháp Vân. Cũng trong tỉnh Vĩnh Long, ngài đã chứng minh cho việc xây dựng tịnh xá Trúc Viên, sau này đổi tên là Ngọc Thuận. Tính đến hết năm 1953, đã có tới hơn hai mươi ngôi tịnh xá, hoặc do chính Tổ sư Minh Đăng Quang đích thân sáng lập hay chứng minh việc xây dựng, hoặc được dựng lên theo chủ trương của các vị đại đệ tử của ngài ở nhiều tỉnh thành miền Nam, như Bình Dương, Vĩnh Long, Cần Thơ, Sa Đéc, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Long An, Tây Ninh, Sài Gòn, Trà Vinh, Mỹ Tho, Gia Định… Đặc biệt, có cả một ngôi tịnh xá đã được xây dựng tại Bình Thuận thuộc Nam Trung phần. Điều này cho thấy sự phát triển rất mạnh của ĐPKSVN ngay trong buổi đầu mở đạo. V. Tiếp tục đóng góp cho Phật giáo Đồng bằng Sông Cửu Long sau ngày Tổ sư vắng bóng 1. Sự vắng bóng của ngài Minh Đăng Quang Ngày rằm tháng Giêng năm Giáp Ngọ 1954, Tổ sư Minh Đăng Quang tập trung chúng Tăng về tịnh xá Ngọc Quang ở Sa Đéc để chỉ dạy việc tu tập. Sau đó, ngài lên đường viếng các tịnh xá ở miền Đông và miền Tây Nam Bộ, ghé thăm núi Cấm rồi lại về tịnh xá Ngọc Quang tụng giới và cúng hội vào ngày 30 tháng Giêng. Sáng ngày mùng 1 tháng Hai năm Giáp Ngọ 5-3-1954, Tổ sư Minh Đăng Quang đi Vĩnh Long và Cần Thơ. Khi đến bến phà Cái Vồn, ngài được mời gặp tướng Năm Lửa Trần Văn Soái. Kể từ đó, hầu như không ai còn được thấy hành tung của ngài. Như vậy, ngài Minh Đăng Quang đã có mặt ở trần thế 32 năm, hành đạo suốt mười năm từ 1944 đến 1954 và nỗ lực nối truyền Chánh pháp của Phật Thích-ca được bảy năm 1947-1954. Về sau, hàng môn đồ đã chọn ngày mùng 1 tháng Hai âm lịch để tưởng niệm sự kiện ân sư vắng bóng. Tuy thời gian hành đạo và hoằng pháp của ngài quá ngắn nhưng Tổ sư đã để lại cho đời hơn 100 vị Tăng Ni đệ tử tiếp nhận chân truyền tư tưởng của Đạo Phật Khất Sĩ cùng với hơn hai chục ngôi tịnh xá rải rác khắp miền Nam Việt Nam làm cơ sở hành đạo và một bộ Chơn Lý gồm 69 bài luận thuyết minh giáo pháp. 2. Các cao đồ của ngài tiếp tục phát triển nền đạo Tổ sư phó chúc việc lãnh đạo Giáo đoàn vào ngày Rằm tháng Bảy năm Quý Tỵ 1953 tại tịnh xá Ngọc Viên và lời ngài căn dặn chư đệ tử chiều ngày 30 tháng Giêng năm Giáp Ngọ 1954 là “sẽ đi tu tịnh tại núi Lửa”, các vị đại đệ tử của ngài hiểu rằng Tổ sư Minh Đăng Quang đã biết trước và đã sắp đặt mọi việc trước ngày đi xa. Thi hành lời dạy của Tổ sư, chư Tăng Ni Khất Sĩ thượng thủ phân công nhau tiếp tục việc hoằng đạo, tạo nên một thời kỳ phát triển mới cho ĐPKSVN. Theo phó chúc của Tổ sư, các vị Giác Chánh, Giác Tánh và Giác Như điều hành giáo đoàn. Các ngài hướng dẫn đoàn Du Tăng đi ra miền Trung dọc theo duyên hải 1956-1957 rồi sau đó trở lại miền Nam, vào sâu các làng mạc xa xôi thuộc một số tỉnh ở miền Đông và miền Tây Nam Bộ. Trong lúc ngài Giác Chánh lãnh đạo cuộc du phương hành hóa thì ngài Giác Như có nhiệm vụ duy trì sự hoạt động ở các tịnh xá đã thành lập. Trong quá trình du phương hành đạo này, các ngài tiếp nhận thêm đệ tử xuất gia và tại gia, mở rộng Giáo đoàn. 3. Hình thành các Giáo đoàn tiếp theo Khi đoàn Du Tăng trở về Nam, một số vị đã trụ lại miền Trung tiếp tục hoằng pháp. Trong các năm 1957 và 1958, hai vị Trưởng lão Giác Tánh và Giác Tịnh thành lập Giáo đoàn II, hành đạo ở vùng duyên hải miền Trung từ Bình Định ra đến Quảng Trị; Trưởng lão Giác An thành lập Giáo đoàn III, nỗ lực truyền pháp ở một phần duyên hải miền Trung và đi ngược lên Tây Nguyên. Khi trở về Nam, Pháp sư Giác Nhiên thành lập Giáo đoàn IV vào năm 1957, Trưởng lão Giác Lý thành lập Giáo đoàn V vào năm 1960 và Hòa thượng Giác Huệ, Hòa thượng Giác Đức thành lập Giáo đoàn VI vào năm 1962, tập trung giáo hóa ở vùng Đông và Tây Nam Bộ. Các vị Ni trưởng cũng tích cực hoằng pháp, thành lập Giáo hội Ni giới Khất sĩ Việt Nam lấy Tịnh xá Ngọc Phương ở quận Gò Vấp, Gia Định nay thuộc quận Gò Vấp, làm trụ sở chính. Vào tháng 5-1966, một kỳ đại hội được tổ chức để thành lập Giáo hội Tăng-già Khất Sĩ Việt Nam. Đến năm 1971, Giáo hội Tăng-già Khất Sĩ thành lập hai viện Viện Chỉ đạo cung thỉnh chư trưởng lão Tôn túc chứng minh, Viện Hành đạo quy tụ chư Thượng tọa, Đại đức có năng lực đảm đương Phật sự. Hai viện này đã hoạt động liên tục đến ngày đất nước thống nhất vào năm 1975. Sau ngày 30-4-1975, chư Tăng Ni Khất Sĩ về an trú tại những ngôi tịnh xá tinh tấn tu hành theo giáo huấn của Tổ sư. Một số vị nương theo thời duyên di chuyển đến các xứ Âu, Mỹ, Úc để phát triển mối đạo. Từ năm 1980, ánh đạo Y Bát chơn truyền của Tổ sư Minh Đăng Quang đã có mặt ở nhiều nơi trên thế giới. Hiện nay, trên cả nước, kể cả ở một số tỉnh thành phía Bắc, Hệ phái Khất Sĩ Việt Nam có vị Tăng và vị Ni đang tu học, góp phần làm Phật sự tại 550 tịnh xá. Ngoài ra, ở hải ngoại, chủ yếu là tại Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Úc… hiện có trên 50 tịnh xá, tịnh thất với khoảng hơn 100 Tăng Ni tu học và hành đạo. 4. Thực hiện tinh thần “Nên tập sống chung tu học” theo giáo hóa của Tổ sư Đầu năm 1980, Giáo hội Tăng-già Khất Sĩ Việt Nam và Giáo hội Ni giới Khất Sĩ Việt Nam cùng tích cực tham gia Ban Vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam. Trên tinh thần hòa hợp, hai Giáo hội Tăng Ni Khất Sĩ cử 6 đại biểu tham dự Hội nghị đại biểu thống nhất thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam vào tháng 11 năm 1981 tại chùa Quán Sứ, thành phố Hà Nội trở thành một trong chín tổ chức Phật giáo sáng lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Từ đây, các tổ chức Phật giáo Khất Sĩ dùng chung một danh xưng mới là Hệ phái Khất Sĩ Việt Nam. VI. Nét đặc thù trong những đóng góp của Hệ phái Khất Sĩ cho Phật giáo vùng Đồng bằng Sông Cửu Long ĐPKSVN là một hiện tượng tôn giáo đặc biệt của vùng Đồng bằng Sông Cửu Long với chủ trương rõ rệt là “Nối truyền Thích-ca Chánh pháp”, và “Đạo Phật Việt Nam không phân thừa”, đi sát với giáo lý nguyên thủy của Đức Phật, thọ nhận hành trì những đặc điểm tinh hoa của Phật giáo Nam tông và Bắc tông. Dựa vào sự sáng tạo của vị Tổ sư và sự tận tụy của các vị đại đệ tử đã nhận được chân truyền, những đóng góp của ĐPKSVN cho Phật giáo nơi này có nhiều nét đặc thù. 1. Làm sống lại hình ảnh vị Tỳ-kheo thời Đức Phật Một đóng góp rất quan trọng của ĐPKSVN là làm sống lại hình ảnh các vị Tỳ-kheo thời Đức Phật. Bóng dáng những con người đầu trần chân đất đắp y vàng bá nạp ôm bình bát bình thản chậm rãi bước đi xin ăn để giáo hóa chúng sanh trên mọi nẻo đường đã gieo những ấn tượng sâu sắc trong lòng quần chúng đang đau khổ vì chiến tranh, vì đói khổ, vì bị ức hiếp bởi ngoại bang. Người dân Nam Bộ thời ấy đã thật sự xúc động khi thấy những con người đang thực hành hạnh nguyện “Nối truyền Thích-ca Chánh pháp”. Sự nghiêm cẩn của Tổ sư Minh Đăng Quang trong lúc chọn đệ tử đã là thành công đầu tiên của ngài. 2. Làm phong phú giáo lý của Đức Phật Với những lời lẽ đơn sơ nhưng không thiếu phần sâu sắc, lại phù hợp với thời đại và tâm lý người đương thời, giáo lý Khất Sĩ đã triển khai những tinh hoa của của Phật giáo, loại bỏ những rườm rà nhuốm màu mê tín hay thần bí, gìn giữ những đặc sắc của tư tưởng Đại thừa và cách hành trì Nguyên thủy nhấn mạnh đến việc không chen lộn trong đời về chỗ ở ăn chay mỗi ngày một bữa trước giờ ngọ; tu sĩ không sử dụng tiền bạc; mọi người đều là Khất sĩ như nhau, không hình phạt, không quyền, không trị, chỉ có một sự dạy mà tất cả được yên… Những điều đó đã làm giáo lý của Đức Phật trở thành sống động trong cuộc sống hàng ngày. 3. Làm đậm nét tinh thần hành trì giáo pháp của Đức Phật Theo đúng những chỉ dạy của Tổ sư Minh Đăng Quang, người Khất sĩ thực hành nếp sống giản dị. Tài sản vật chất của người Khất sĩ chỉ có một y một bát. Tất cả những phương tiện hành đạo đều thuộc về hàng cư sĩ, các vị hộ pháp. Tài sản thực sự của Khất sĩ là hiểu đúng Võ trụ quan rằng quả địa cầu là cái quả to bằng tứ đại, trong đó có chứa chúng sanh cũng bằng tứ đại, đủ ba hạng… và vì vậy mà xuất gia Khất sĩ lớp trên phải thực hành “Tứ y pháp” 1. Người tu xuất gia giải thoát phải lượm vải bỏ mà đâu lại thành áo, nhưng có ai cúng vải, đồ cũ thì được nhận; 2. Người tu xuất gia giải thoát chỉ ăn đồ xin mà thôi, nhưng ngày hội, thuyết pháp đọc giới bổn, được ăn tại chùa; 3. Người tu xuất gia giải thoát phải nghỉ dưới cội cây, nhưng có ai cúng lều, am nhỏ bằng lá một cửa thì được ở; 4. Người tu xuất gia giải thoát chỉ dùng cỏ cây hoa lá mà làm thuốc trong khi đau, nhưng có ai cúng thuốc dầu đường thì được dùng. Tứ y pháp là chánh pháp của võ trụ, quý báu hơn hết. 4. Sáng tạo những nét độc đáo về hình thức tu học Một trong những nét đặc trưng của giáo lý cũng như sinh hoạt thực tế của người Khất sĩ là có những sáng tạo có tính cách độc đáo về hình thức tu học. Giáo lý của ĐPKSVN được thể hiện bằng ngôn ngữ giản dị, sống động, thực tiễn, phù hợp với tâm tính người Nam Bộ. Nghi thức của Khất sĩ cũng rất tinh giản, không rườm rà, hình thức. Đặc biệt, kiến trúc ngôi tịnh xá là một sáng tác của ngài Minh Đăng Quang. Sau ngôi tịnh xá đầu tiên là Pháp Vân, những ngôi tịnh xá kế tiếp đều được Tổ sư Minh Đăng Quang đặt tên ghép với chữ Ngọc Ngọc mang ẩn dụ tịnh xá là nơi hoằng hóa, làm lợi cho chúng sanh, có giá trị như những viên ngọc quý. Chữ ghép với Ngọc, ngài cho phép tùy nghi dùng tên địa phương nơi tịnh xá tọa lạc hay một từ có ý nghĩa đạo đức thể hiện hoài bão của tập thể dựng nên tịnh xá. Khi kiến lập cở sở hạ tầng cho Đạo Phật Khất Sĩ, Tổ sư Minh Đăng Quang đã phác họa mô hình tịnh xá tám cạnh làm nơi quy tụ chúng Tăng Ni, tháp 13 tầng để thờ Pháp, có các nhà giảng kinh, nhà nghỉ mát và thọ thực, nơi tạm trú của Tăng, nơi tạm trú của Ni, nơi sinh hoạt của nam nữ cư sĩ riêng biệt… trong một khu đất có hồ sen, có núi đất, có ao rạch nhưng không được trồng bông và cây ăn trái, ở nơi xa chợ búa, xa nơi đông đúc phồn hoa, xa chốn binh gia, xa nơi tôn giáo… có hàng rào làm ranh, có cổng sáng 7 giờ mở ra chiều 5 giờ đóng lại để các sư có nơi tu tịnh. Với mô hình này, ngài đã xác lập tịnh xá là dành cho cả tứ chúng và chú ý đến tháp là tháp thờ giáo pháp của Đức Phật với 13 tầng tượng trưng cho 13 nấc tiến hóa của chúng sanh từ địa ngục tiến lên chánh giác, gồm lục phàm, tứ thánh, tam tôn. Ngài cũng không xem đạo của ngài là tôn giáo, mà chỉ là con đường. 5. Xây dựng ngôi nhà chung Phật giáo Việt Nam Như trên đã trình bày, vào năm 1980, cả hai Giáo hội Khất Sĩ Tăng và Ni đều tích cực tham gia cuộc vận động nhằm thống nhất Phật giáo Việt Nam, và trong Đại hội thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, các đoàn thể Khất sĩ thể hiện tinh thần “Tam tụ – Lục hòa” cùng cử một đoàn đại biểu chung cho Khất sĩ. Tinh thần ấy đã khiến nhiều giáo đoàn Khất sĩ khác, chưa gia nhập Giáo hội Tăng-già Khất Sĩ Việt Nam thời 1969, lần lượt xin sáp nhập vào Hệ phái Khất sĩ, thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện nay. Từ khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập, Hệ phái Khất Sĩ Việt Nam cũng đóng góp nhiều công sức trong việc xây dựng Giáo hội. Là một trong các tổ chức Phật giáo tham gia sáng lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, việc phát triển của Hệ phái Khất Sĩ cũng là sự phát triển của Phật giáo Việt Nam. Hệ phái Khất Sĩ luôn tích cực tham gia mọi Phật sự. Đặc biệt, sự đóng góp của các vị tôn túc giáo phẩm thuộc Hệ phái Khất Sĩ Việt Nam trong thành phần Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự của Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng như trong các cấp Giáo hội được đánh giá cao với những hoạt động thiết thực ở mọi lãnh vực, từ Hoằng pháp đến Giáo dục Tăng Ni, từ Truyền thông đến Văn hóa, từ tổ chức Hướng dẫn Phật tử đến Tăng sự, và nhất là trong công tác Từ thiện xã hội, vốn là nếp quen của Hệ phái. 6. Góp phần xây dựng một nền văn hóa dung hợp dựa trên truyền thống Nam Bộ Với phương châm “Nên tập sống chung tu học”, với quan điểm “Phật giáo Việt Nam không phân thừa” và trên tinh thần thu góp tinh hoa của mọi tông phái, hoạt động của Hệ phái Khất Sĩ Việt Nam có tác động lớn đến việc xây dựng một nền văn hóa dung hợp, vốn là đặc điểm của tinh thần Nam Bộ, nơi sớm có sự hỗn dung của các nền văn hóa khác biệt vào lúc xây dựng vùng đất mới ở miền Nam nước Việt. * * * ĐPKSVN đã kế thừa truyền thống tốt đẹp của Phật giáo Bắc tông và Nam tông, tâm nguyện là một cành nhánh lan tỏa từ ánh đạo vàng của Đức Bổn sư. Như mọi con sông đều đổ về biển cả, giáo lý của ĐPKSVN cùng hội nhập tư tưởng của mọi tổ chức Phật giáo khác trong vùng đều hòa vào biển Phật pháp nhiệm mầu mà Đức Thế Tôn đã khai sáng cách đây hơn 25 thế kỷ. THÍCH GIÁC TOÀN Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo Số 349
Lượt xem 672 Tác giả bài viết ĐĐ. THÍCH NGUYÊN THẾ TÓM TẮT Hệ phái Khất sĩ Bắc tông Việt Nam ra đời vào năm 1954 tại Sài Gòn, tổng đàn của hệ phái là Tổ đình Linh Quang tịnh xá quận 4. Hiện tại Tăng trưởng của hệ phái là Hòa thượng Thích Từ Giang. Bài viết này nhằm giới thiệu khái lược về quá trình hình thành, phát triển của một hệ phái Phật giáo ra đời đã ra đời trong thập niên 40 của thế kỷ XX và vẫn đang tồn tại và tiếp tục đóng góp cho ngôi nhà chung Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Từ khóa Khất sĩ Bắc tông, Linh Quang Tịnh xá. ** * Dẫn nhập Hệ phái Khất sĩ Bắc tông Việt Nam còn được biết đến với các tên gọi khác nhau như Khất sĩ Đại thừa, Khất sĩ đại sư Huệ Nhựt. Tổ chức Phật giáo Khất sĩ này do Đại sư Huệ Nhựt 1903 – 1950 khai sáng vào năm 1945. Cơ sở đầu tiên là chùa Linh Bửu Cầu Hang – Gò Vấp nay đã không còn. Đại sư Huệ Nhựt tục danh là Hồ Cang, vốn xuất thân từ tổ đình Linh Sơn Tiên Thạch Núi Bà Đen – Tây Ninh, nối truyền dòng thiền Lâm Tế Liễu Quán Tế Thượng Chánh Tông đời thứ 45, được hòa thượng bổn sư Nguyên Cơ – Giác Phú ban pháp hiệu là Quảng Thạnh – Huệ Nhựt. Sau khi, hòa thượng bổn sư viên tịch, Đại sư Huệ Nhựt trở về lại Sài Gòn, lấy nền nhà cũ là nơi tu niệm. Năm 1938, nhận thấy được sự biến thiên của thời cuộc, đạo pháp suy vi, những giá trị chân chánh của Phật giáo ngày càng bị lãng quên, Đại sư đã quyết định thực hành hạnh đầu đà khất sĩ, sáng lập hệ phái mới, lấy tên gọi là “Khất sĩ Bắc tông Việt Nam”. Phương châm hành đạo là “Ngọn đèn không tim tỏa sáng nhà Phật giáo truyền”, xiển dương ngọn cờ “Thích Ca chánh tông” và đặt tên cho tịnh thất của mình là Linh Bửu Tự. Tài liệu chính yếu được đại sư trước tác là quyển “Pháp môn Đáo bỉ ngạn” đã ấn hành và phổ biến vào năm 1945, trong khi ngài đang trụ trì và hành đạo tại chùa Vạn Thọ phường Tân Định, quận 1. Trong giai đoạn trước năm 1975, tại đô thành Sài Gòn, có rất nhiều đoàn thể Khất sĩ khác nhau du hóa và hành đạo. Ngoài đoàn Khất sĩ Đại sư Huệ Nhựt 1945 còn có các tổ chức Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam của tổ sư Minh Đăng Quang 1947, Liên tông Tịnh độ non bồng của ngài Thiện Phước – Mẫu Trầu 1957, Khất sĩ Sơn Lâm 1960, Giáo đoàn Khất sĩ Ca Diếp – Kasyapa 1972, nhóm khất sĩ thuộc Giáo hội Tịnh Độ tông Việt Nam 1955, Khất sĩ tu tịnh của ngài Từ Huệ 1952 và Giác Bảo 1954, vậy, có nhiều tổ chức Phật giáo mang hình thức Khất sĩ xuất hiện vào đầu thế kỷ XX. Tuy có tương đồng về phương diện hình thức nhưng vẫn có những sự khác biệt cơ bản về mặt tư tưởng và phương thức hành trì. 1. Một số nét đặc thù của hệ phái Khất sĩ bắc tông Việt Nam Pháp môn và tông chỉ Sau khi Đại sư Huệ Nhựt “liễu đạo”, Ngài đã công bố điều đó qua những câu nói được ghi lại trong quyển “Pháp môn Đáo bỉ ngạn” như sau “Bần Tăng vừa tỉnh giấc chiêm bao” hay “Phật pháp ra đời ngày rằm tháng 7 năm Ất Dậu” trong phần “Tiểu tựa” và “Tế thượng chánh tông”. Từ đó, Ngài khẳng định “Ngôi Tam bảo của ta có đủ sẵn sàng không thiếu vật chi, ta cần gì tầm kiếm nữa.”. Từ đó, thành lập tăng đoàn, hệ phái “Khất sĩ Bắc tông Việt Nam” lấy phương châm là “Ngọn đèn không tim tỏa sáng nhà Phật giáo truyền” và “Thích Ca chánh tông” làm mục đích hoằng pháp. Sau đó, Ngài đã tùy thuận trước tác quyển Pháp môn Đáo bỉ ngạn để làm phương tiện chỉ dạy đệ tử, đồ chúng những cách thức tu tập và sinh hoạt hàng ngày. Như trong phần “Tiểu tựa”, Đại sư đã nhắc nhở như sau “Bởi cớ ấy nên Bần tăng soạn làm một bài tựa là “Pháp môn Đáo Bỉ Ngạn” theo điệu văn vần phổ thông và vắn tắt sơ lược, vì có một vài câu bỉ thô gay gắt nên e có người dị nghị… Tôi nghe Phật nói “Vô quái ngại, vô quái ngại…” Nên tôi làm lời tựa này mà khuyên thập phương bổn đạo, thiện nam tín nữ, y theo pháp môn này, mà tự tu, tự độ lấy mình, liên rõ đặng tà chánh và chí tâm niệm Phật ngày đêm chẳng quên, tự nhiên hết khổ não hết lo sợ, hết loạn tâm và các điều tai nạn tật bịnh, sanh tử liền hết chẳng sai..”.1 Và ở một đoạn khác Đại sư khẳng định lại “Huệ Nhựt Ta có một lời cảnh cáo trước với hết thảy ai là người muốn tầm ta mà học hỏi đạo. Ta xin trả lời trước rằng Ta thật không biết đạo chi cả. Nếu muốn biết Đạo thì cứ đọc tụng kinh Phật đó sẽ biết. Ta chỉ khuyên người niệm Phật một câu Nam mô A Di Đà Phật mà thôi…”.2 Pháp môn Đáo bỉ ngạn được viết theo lối văn vần, văn xuôi, có khi lại dùng các lối thơ cổ Đường luật tứ tuyệt, ngũ ngôn, lục bát với lời lẽ bình dân, gãy gọn, mộc mạc. Bên cạnh đó, phần nghi lễ và dẫn giải về tư tưởng Thiền học, Đại sư vẫn theo truyền thống của Bắc Tông mà sử dụng âm Hán – Việt. Tập sách Pháp môn đáo bỉ ngạn có 42 bài viết ngắn gọn súc tích gồm 1. Chơn ngôn, 2. Tế thượng chánh tông, 3. Phép trừ tà đạo hóa nhơn tâm, 4. Tỉnh hồn, 5. Giúp tà quy chánh kiến, 6. Mê giác yếu ngôn, 7. Mê giác cần phải nhớ, 8. Độ tận nhân ngã tướng kiến tánh thành Phật, 9. Vô nhơn ngã tướng, 10. Tịnh độ yếu lý, 11. Yếu ngôn, 12. Niệm Phật cần phải biết, 13. Nói về phép Niệm Phật tam-muội và lý Thiền định, Tịnh độ, 14. Tự luận giải, 15. Pháp ấn tâm thế nào, 16. Sao gọi là Như Lai, 17. Lý đạo, 18. Chơn giả không thật, 19. Tự giác giác tha, 20. Vài điều chánh ngữ, 21. Minh tâm kiến tánh pháp, 22. Đức Di-lặc, 23. Giới định tuệ, 24. Bài tụng vô tướng, 25. Ngũ giới cấm, 26. Vô vi pháp, 27. Tâm yếu, 28. Sám tâm kinh, 29. Sám hối, 30. Lời cần yếu, 31. Cách tụng niệm mỗi ngày, 32. Phép tắc tụng kinh, 33. Phép tắc trì chú Chuẩn Đề, 34. Lời khuyên nhủ, 35. Phép tắc niệm hương, 36. Phép tắc thiền định, 37. Nam mô A Di Đà Phật, 38. Phép tắc tọa thiền niệm Phật, 39. Ngũ giới hương, 40. Kệ văn, 41. Phép tắc thường dùng, 42. Sám ca cầu hồn. Nội dung quyển Pháp môn Đáo bỉ ngạn không đề cập đến việc Đại sư tuyên bố lập phái hay xiển dương hoặc chỉ trích bất cứ một pháp môn, truyền thống nào; cũng không quy định cụ thể những phép tắc dành cho chúng xuất gia thọ giới, y bát, xây dựng hệ thống tổ chức, phát triển cơ sở, Quyển Pháp môn Đáo bỉ ngạn là một tập hợp các bài học, tư tưởng phổ biến của Phật giáo Bắc tông. Sự dung hợp đầy đủ các pháp học tổng hợp từ Thiền, Tịnh, Mật và Luật tông Tì-ni nhật dụng, không có sự phân biệt giữa các truyền thống. Đại sư đã Huệ Nhựt không câu nệ bởi pháp môn, không xu hướng văn tự cao siêu mà đơn giản mộc mạc hoằng dương lời Phật dạy, theo cách gọi của Ngài là “Ngọn đèn không tim nhà Phật giáo truyền – Thích Ca chánh tông”. Hệ thống tổ chức và chức sắc, tín đồ Đối với đoàn Khất sĩ Bắc tông của Đại sư Huệ Nhựt việc quy định cụ thể về mặt số lượng, quy mô, hình thức chưa được cụ thể hóa. Từ khi Đại sư về chùa Vạn Thọ Quận 1 và bắt đầu thâu nhận đệ tử 1945 cho đến khi thọ nạn 1950 là một khoảng thời gian ngắn, số lượng đệ tử được ghi nhận là 11 vị Tăng và 10 vị Ni. Đại sư với vai trò vừa là Bổn sư, vừa là Tăng trưởng. Việc Đại sư viên tịch quá sớm, hàng đệ tử chưa được trao truyền đầy đủ tất cả tư tưởng và kế thừa một tổ chức chính danh là một điều thiệt thòi lớn đối với hệ phái Khất sĩ Bắc tông. Sự truyền thừa vẫn căn bản là phương pháp “Gia giáo” truyền thống, thầy dạy trò và học hỏi thêm từ sự gần gũi, “thân giáo” khi Đại sư còn sinh tiền. Như vậy, về mặt tổ chức trong và ngay sau khi Đại sư Huệ Nhựt qua đời, đoàn Khất sĩ Đại thừa vẫn chưa hình thành một hệ thống tổ chức cụ thể mà chỉ theo lối truyền thống sơn môn, pháp phái quy tụ một nhóm các vị tu sĩ Tỳ kheo trong tông môn cùng nhau tu học theo kiểu “thầy truyền trò” xiển dương chủ thuyết và tự tu tập theo con đường mà vị Thầy khai sáng của mình đã vạch ra, cụ thể ở đây là Đại sư Huệ Nhựt và quyển Pháp môn Đáo bỉ ngạn. Sau khi Đại sư lâm nạn, Tăng đoàn Khất sĩ Bắc tông như thuyền không người lái, thế hệ kế thừa chưa đủ mạnh và phải di chuyển về một địa bàn hoạt động mới Vũng Tàu; điều kiện sinh hoạt và hoằng pháp không mấy thuận lợi. Sau năm 1954, Hòa thượng Phổ Ứng với vai trò là Tăng trưởng mới đã hướng dẫn giáo đoàn trở lại Sài Gòn, bắt đầu xây dựng trụ sở chính là Tổ đình Linh Quang tịnh xá – tổng đàn của chư tăng thuộc Phật giáo Khất sĩ Đại thừa. Kể từ khi ngôi tổ đình được hoàn thiện đã trải qua 3 đời trụ trì là Hòa thượng Phổ Ứng, Hòa thượng Từ Giang và hiện tại là Thượng tọa Phong Nhã – Minh Huệ. Việc điều hành tổ chức vẫn y theo truyền thống với sinh hoạt kiểu sơn môn, tổ đình. Sự liên lạc gắn kết giữa các cơ sở trong tông môn rất giới hạn. Bên cạnh đó, tổ đình cũng chỉ công nhận và chịu trách nhiệm 5 cơ sở chính, trực thuộc quản lý và được xem là chi nhánh của tổ đình. Về mặt số lượng Tăng – Ni Theo thống kê của Thượng tọa Thích Phong Nhã – Minh Huệ đương nhiệm trụ trì của Tổ đình Linh Quang tịnh xá trong thời điểm hiện tại thì có 50 vị Tỳ kheo + Sa di 34 vị, Ni 16 vị và 6 cơ sở chính trực thuộc được công nhận và do Hòa thượng Từ Giang khai sơn của Khất sĩ Bắc tông. Do tình hình sinh hoạt đặc thù của tông phái này, các vị Tăng – Ni xuất chúng vì bất kì lý do gì, nghĩa là không còn chung sống, sinh hoạt chung với tổ đình, sẽ không được công nhận là thành viên của tông môn, dù cho vẫn duy trì các hình thức sinh hoạt như trước. Phương thức sinh hoạt Việc xuất gia, thọ giới của chư Tăng Khất sĩ Bắc tông không có tiền lệ lập đàn giới riêng như hệ phái Khất sĩ của Tổ sư Minh Đăng Quang hay hệ phái Phật giáo nguyên thủy. Giới pháp của một vị Khất sĩ Bắc tông hoàn toàn đồng nhất với Tăng sĩ hệ phái Bắc tông. Việc cho xuất gia độ chúng Ni có từ thời Đại sư Huệ Nhựt và hòa thượng Phổ Ứng kế thừa. Ban đầu khi tăng đoàn vừa thành lập, chưa có cơ sở chính nên Đại sư chủ trương Tăng – Ni sống chung tu tập, để hỗ trợ nhau trên bước đường du hóa rày đây mai đó. Y và Bát là hai pháp khí không thể tách rời tu sĩ đệ tử Phật. Nó gắn liền với đời sống sinh hoạt thường nhật của Tăng – Ni và có những quy định rất rõ ràng được ghi chép trong Luật tạng và cách thức sử dụng hành trì. Tuy nhiên, do tính chất biệt truyền của mỗi hệ phái và văn hóa của từng quốc gia mà Phật giáo du nhập nên có những điểm cách tân về y phục và pháp khí cho phù hợp. Nhưng do mục tiêu là duy trì hình thức du tăng Khất sĩ, học hạnh của chư Bồ tát “Thượng cầu, hạ hóa” nghĩa là trên thì xin học Phật pháp, dưới hóa độ chúng sinh; nên các vị Khất sĩ giữ nguyên hình thức y áo nguyên thủy tương đồng với truyền thống Nam tông. Về phương diện hình thức, pháp phục của ni giới Khất sĩ Bắc tông giai đoạn đầu có điểm tương đồng với ni giới hệ phái Khất sĩ của Tổ sư Minh Đăng Quang, nghĩa là vẫn quấn y vàng, mặc đồ vàng. Sau khi Đại sư Huệ Nhựt viên tịch, ni chúng do ni sư Thích nữ Diệu Tú điều hành. Việc tu học của chư ni rất cần sự hướng dẫn, dìu dắt của các bậc tiền bối, bên cạnh đó việc xuất gia thọ giới cũng phải nương tựa vào giới đàn và quý Ni trưởng Bắc tông. Vì vậy, việc y chỉ vào ni giới Bắc tông là một việc làm đúng pháp và cần thiết. Sự gần gũi trong việc tu tập và tư tưởng giữa Bắc tông và Khất sĩ Bắc tông là một sự thật hiển nhiên, dẫn đến việc chuyển đổi trong trang phục pháp phục là sự tất yếu. Ngày nay, hầu hết chư ni tại Linh Quang tịnh xá cơ sở ni có cách ăn mặc tương đồng như hệ phái Bắc tông. Các đoàn thể, tổ chức Khất sĩ đã thông qua việc trì bình khất thực để hành đạo. Tuy nhiên điểm đặc biệt đối với nhóm Khất sĩ Bắc tông thời kỳ đầu đó là Đại sư Huệ Nhựt một tay ôm bình bát, một tay chống “Tích trượng” dẫn đầu đoàn khất sĩ vân du khắp nẻo đường ở Sài Gòn. Việc trì bình, khất thực này vẫn được duy trì sau khi Đại sư viên tịch. Thế nhưng, các vị Khất sĩ không còn dùng Tích trượng mỗi khi đi ra ngoài nữa. Mãi cho đến những năm gần đây, do tình hình chung về việc giả danh tu sĩ khất thực, xin tiền làm xấu đi hình ảnh của các vị Khất sĩ và Tăng đoàn, việc khất thực của chư Tăng – Ni đã bị tạm ngưng. Nghi lễ Sinh hoạt, nghi lễ của chư Tăng hệ phái đều kế thừa từ Phật giáo Bắc tông, vẫn duy trì các thời khóa cơ bản của các sơn môn xưa như Hô canh ngồi thiền, công phu sáng – chiều, cúng ngọ, quá đường, tịnh độ, vẫn dùng kinh nhật tụng bằng âm Hán – Việt xen lẫn các bài kệ, sám văn đã được Việt dịch và sử dụng phổ thông tại các chùa. Nghi thức thọ trai quá đường là một trong những thời khóa rất được chú trọng tại tổ đình để chú nguyện, cầu an, cầu siêu cho tín đồ thập phương và thân chủ của các tro cốt kí gửi tại chùa. Các bản kinh thường được sử dụng, đọc tụng hàng ngày gồm có Kinh Pháp Hoa, kinh Dược sư, kinh Di Đà, kinh Niệm Phật Tam muội, Đại bi sám pháp, Lương hoàng sám, ngoài ra việc hành trì pháp Mật tông chủ yếu bao gồm Ngũ bộ chú và chú Đại Bi, chú Lăng Nghiêm. Thứ tự, các bài kinh, chú, sám văn thống nhất với bố cục của kinh nhật tụng do Giáo hội Phật giáo Việt Nam ấn hành. Ngoài những thời kinh, lễ căn bản theo truyền thống Tịnh độ thì đáng quan tâm nhất là có những thời khóa trì chú, đây là thiên hướng đặc thù Mật tông như đã đề cập ở trước. Mặc dù, thực hành hạnh Khất sĩ và duy trì pháp môn tu Tịnh, chư tăng và cư sĩ Phật tử tại tổ đình vẫn thực hiện trì chú Lăng Nghiêm Sūraṃgama Samādhi Mantra vào thời khóa sáng và hành trì Đại bi sám pháp vào buổi chiều. Ngoài ra, còn có gia trì “tịnh thủy” để điều trị các bệnh về tâm linh, nghi thức này được thực hiện hằng ngày sau nghi thức “quá đường” khoảng 12 giờ với sự tham dự của các đạo hữu Phật tử có nguyện vọng và tin tưởng vào phương pháp gia trì tại tổ đình. Vì đó, nên từ lâu Tổ đình Linh Quang tịnh xá được biết đến với tên gọi “chùa nước lạnh”, nghĩa là dùng nước lạnh để trị các bệnh tâm linh. Trong thời khóa công phu tu tập tại tổ đình có mấy điểm đặc biệt đó là thời tụng kinh Pháp Hoa vào buổi sáng 08h giờ và trì chú Lăng Nghiêm vào buổi trưa 12 giờ, khóa lễ trì chú Đại bi vào buổi chiều trì 21 biến Đại bi và 108 Đại minh chú, Ngũ bộ chú, Nhìn chung thời khóa sinh hoạt tương đồng với các chùa Bắc tông tu Tịnh; tuy nhiên, việc dành 2 thời lễ đặc biệt cho việc hành trì mật chú cũng đã xác định việc thực hiện song hành cả hai pháp môn Tịnh – Mật. Nhờ vào sự gia tâm và hành trì mật chú nên việc thực hiện “chú nguyện bạt độ chư vong linh được tịnh chư nghiệp chướng, vãng sanh Cực lạc quốc”3 rất được tín đồ quan tâm và tham gia khóa lễ. Về cơ sở thờ tự Kiến trúc nổi bậc nhất của hệ phái ngôi Tổ đình Linh Quang tịnh xá quận 4. Ban đầu chỉ là một chòi tranh đơn sơ dùng làm nơi tu học cho đoàn du tăng. Từ năm 1963 – 1969, bắt đầu khởi công kiến thiết ngôi chánh và tiếp sau đó là lần lượt các công trình phụ cận để đáp ứng nhu cầu chỗ ở và nơi tu tập. Là cơ sở đầu tiên và cũng là trụ sở chính của hệ phái, tổ đình Linh Quang có những nét đặc thù độc đáo ở tính kế thừa kiểu kiến trúc mới trong giai đoạn chấn hưng nhưng vẫn gìn giữ lối trang trí cổ truyền. Điểm đặc biệt của Linh Quang tịnh xá là phía trước cổng Tam quan có chiếc cầu Long Hoa dẫn vào chùa. Bên trái của chánh điện từ trong nhìn ra là một tấm bia tưởng niệm có 2 mặt lược ghi tiểu sử của hòa thượng Phổ Ứng và lịch sử của ngôi Tổ đình Linh Quang. Kế đến là tòa tháp 7 tầng, thờ tôn tượng và linh cốt của chư vị tổ sư hệ phái, các tầng còn lại dùng để thờ tro cốt của tín đồ. Ngôi tổ đình là không theo lối truyền thống “Tiền Phật, hậu Tổ”. Khu vực thờ tổ được chuyển lên tầng cao nhất của ngôi tháp. Tòa nhà lớn nằm ở vị trí trung tâm là chánh điện. Tượng bổn sư Thích Ca bày vai trong tư thế xúc địa ấn Bhūmisparśa Mudrā được bố trí ở trung tâm. Bên cạnh đó phối thờ một số bộ tượng theo truyền thống tịnh độ như Bộ Tây phương Tam Thánh, Tiêu diện – Hộ Pháp, Mục kiền liên – Địa tạng, Khu vực ngoài bên phải là ban thờ Quan Âm Bồ tát, phía bên trái là khu vực trai đường và bàn Công đức lâm. Hai dãy tường trên trần cũng được vẽ các bức tranh mô tả về lịch sử cuộc đời của đức Phật, phía dưới các bức tranh là hai câu “Ánh sáng chơn lý chan hòa vũ trụ, Đức Từ bi bao phủ khắp muôn loài.” Từ phía trong chánh điện nhìn ra, bên dưới của bức phù điêu hình bàn tay nâng bánh xe chuyển pháp luân là dòng Hán tự “Phật đạo hoằng khai quy tứ chúng” Đạo Phật mở bày rộng khắp làm nơi quay về cho bốn chúng.. Từ phía mặt tiền của ngôi chánh điện có thể nhìn thấy tấm hoành bằng chữ Hán “Linh Quang tịnh xá”. Cách bài trí của ngôi chánh điện ảnh hưởng bởi chủ trương truyền bá tư tưởng Tịnh độ, không gian bên trong chánh điện được phân chia thành 3 phẩm rõ rệt theo phương pháp “Tam bối vãng sanh” Thượng phẩm thượng sanh tượng trưng cho khu vực ban thờ trung tâm của chánh điện. Trung phẩm trung sanh tượng trưng cho khu vực nơi chư tăng hành lễ. Hạ phẩm hạ sanh tượng trưng cho khu vực tín đồ Phật tử đến lễ bái, tụng niệm hàng ngày. Căn cứ theo cách thiết trí nơi chánh điện, để phân định rõ 3 phẩm thì Phần thượng và Trung phẩm được trang trí theo lối chạm, khắc phù điêu ao sen; còn phần Hạ phẩm là hình một ao nước xanh xung quanh và bờ đê có màu đất của Ngoài ra, còn có một số công trình phụ khác như, phòng khám từ thiện, văn phòng, thư viện, phòng phát hành, tăng xá, Tất cả công trình được xây dựng theo lối hiện đại nhưng vẫn giữ gìn được nét đặc trưng của văn hóa truyền thống và chùa Việt với đầu mái cong và họa tiết hoa sen. 2. Các hoạt động an sinh xã hội Với Bi nguyện của người con Phật là “Nhập thế hành đạo” và phương châm của Giáo hội là sống “tốt đời, đẹp đạo”, Phật Giáo việt Nam đã phát huy và kế thừa truyền thống gắn bó, đồng hành cùng dân tộc. Các tổ chức, cơ sở Phật giáo luôn tham gia tích cực vào các hoạt động nhân đạo, từ thiện, xã hội. Các công tác góp phần an sinh xã hội của Phật giáo ngày càng sâu rộng, với nhiều hình thức phong phú, linh hoạt, đạt hiệu quả và có những đóng góp nhất Trên tinh thần đó, các hoạt động xã hội đã được chư tăng Khất sĩ Bắc Tông và cụ thể là Hòa thượng Tăng trưởng Thích Từ Giang đặc biệt quan tâm và xem như một pháp môn tu tập. Hòa thượng Từ Giang cho rằng “Người của Hệ phái Khất sĩ Đại sư Huệ Nhựt luôn thực hành hạnh nguyện tùy hỷ, cùng phát triển tâm lành với mọi người, để phải trong các Phật sự, kể cả những nỗ lực thể hiện pháp lành vì người, hướng đến người, cho người trong các công việc từ thiện xã hội, khám bệnh miễn phí.”6 Đối với các công tác từ thiện thiên về lĩnh vực giáo dục, năm 1989, Hòa thượng Từ Giang đã được chính quyền và các cơ quan chức năng đồng thuận và xét duyệt đề án xây dựng một cơ sở từ thiện dân lập chăm sóc trẻ em khuyến tật trong địa bàn quận 4, tạo điều kiện cho các em được chăm sóc tốt hơn và phát triển kỹ năng sống, giảm thiểu gánh nặng cho gia đình của các em và xã hội. Theo quyết định số 442/QĐUB ký ngày 27/06/1989 của UBND Trung tâm giáo dục trẻ khuyến tật quận 4 Education Center for handicapped children được thành lập. Trung tâm do hòa thượng Từ Giang là giám đốc, ông Lý Văn Mai phụ trách chuyên môn và 26 nhân viên kiêm nhiệm nhiều công tác tại trung tâm. Đề án xây dựng và phát triển Trung tâm giáo dục trẻ khuyết tật quận 4 ghi rõ các đối tượng chính được hướng tới là Trẻ chậm phát triển trí tuệ, câm điếc, liệt chi, động kinh, suy dinh dưỡng, hội chứng Down. Trung tâm đề xuất hai nhiệm vụ chính đó là 1 Nuôi dạy, cải thiện sinh hoạt vui chơi, tạo điều kiện cho các trẻ em quên đi số phận bất hạnh của mình, đồng thời dạy văn hóa cho các em. 2 Điều trị bệnh tật, nâng cao đời sống, sức khỏe, phục hồi trí năng. Phương pháp trị liệu cũng là một trong những mối quan tâm chính yếu của trung tâm. Hòa thượng giám đốc đã đề ra các phương pháp áp dụng để chữa bệnh và phục hồi tâm sinh lý cho trẻ gồm 1 Các phương pháp y học Đông – Tây y kết hợp và chăm sóc nha răng cho trẻ. 2 Tâm lý trị liệu bao gồm nghe nhạc, văn nghệ, lao động, trò chơi, 3 Dưỡng sinh và võ thuật. 4 Bấm huyệt. 5 Phương thực ăn chay. Trung tâm y tế quận 4 xác nhận là mạng lưới cơ sở khám bệnh miễn phí của trung tâm. Việc vận dụng Y phương minh vào công tác hoằng pháp đã có truyền thống lâu dài và gặt hái nhiều thành công trong lịch sử Phật giáo. Kế thừa tư tưởng đó, Hòa thượng Từ Giang cũng đã phương tiện mở một phòng khám từ thiện đặt trong khuôn viên tổ đình tên là “Phòng khám bệnh nhân đạo Linh Quang”. Phòng khám từ thiện tại Linh Quang tịnh xá đi vào hoạt động từ ngày 01/03/1993 và đã được Hội chữ thập đỏ thành phố và quận 4. Hòa thượng Từ Giang đã có nhiều năm liền gắn bó với các công tác an sinh xã hội, với tinh thần từ bi và hạnh nguyện giúp đời đau khổ bằng cả tâm lực và nguyện lực, trong thì gia tâm, gia trì giúp đỡ phần an tâm cho các tín đồ, ngoài đi xuôi ngược đó đây cứu trợ thiên tai, từ thiện giúp đỡ người khi khó ngặt, kế thừa tư tưởng của Đại sư Huệ Nhựt, theo lời Ngài dạy trong phần tựa của Pháp môn Đáo bỉ ngạn “Tất cả phép “có làm” Như chiêm bao bọt bóng, Cũng như sương như chớp! Muốn làm gọi như vậy Có hình tất có hoại Ưa muốn nhiều tai hại! Biết rõ nghĩa Như Lai, Mới rằng mình làm đạo” Tư tưởng của Đại sư là người làm đạo hay các việc như đi đứng, nằm ngồi, thấy nghe, hay biết đều như bọt bóng, như ánh chớp, hạt sương. Vô thường chớp nhoáng, vụt có vụt không cho nên vô trụ vô chấp. Do đó, các hoạt động tu tập, hoằng pháp hay từ thiện giúp người đều âm thầm làm, làm xong thì buông bỏ, không vướng bận, không ghi chép, báo cáo, Kết luận Trong nhiều năm qua, hệ phái Khất sĩ Bắc tông đã có những đóng góp và thành tựu nhất định cho việc xây dựng, phát triển ngôi nhà chung Giáo hội Phật giáo Việt Nam và giữ gìn, hoằng truyền tư tưởng của các bậc tiền bối tổ sư ngày càng hưng thịnh, phát triển “Tổ ấn trùng quang”. Về phương diện nội bộ phát triển tông phong, hệ phái Khất sĩ Bắc tông đã hình thành được thêm các cơ sở trực thuộc, vệ tinh, số lượng nhân sự, thành viên của tông phong được đào tạo bài bản qua các trường lớp chuyên môn của Giáo hội cũng như ra nước ngoài. Về cơ sở vật chất, có thể nói tổ đình Linh Quang tịnh xá, tổng đàn của chư tăng Khất sĩ Bắc tông tuy không quá nguy nga nhưng cũng rất trang nghiêm, có màu sắc, điểm nhấn riêng. Kiến trúc đặc thù kết hợp giữa hiện đại và truyền thống, làm phong phú thêm cho mảng nghệ thuật Phật giáo thời cận, hiện đại. Đối với phương diện hướng ngoại như các công tác hoằng pháp, từ thiện xã hội, Tổ đình Linh Quang tịnh xá và hệ phái Khất sĩ Bắc tông đã có những đóng góp nhất định cho vấn đề an sinh xã hội, cùng chung tay với chính quyền, nhà nước quan tâm giúp đỡ, cải thiện đời sống cho đối tượng cần được hỗ trợ. Dưới góc độ tiếp cận của Tôn giáo học, có thể nói hệ phái Khất sĩ Bắc tông đã thực hiện được vai trò, chức năng hỗ trợ xã hội của mình bằng những việc làm cụ thể. Không chỉ dừng lại ở việc giúp đỡ, hỗ trợ bằng những hành động mang tính thực tiễn như vật chất, tiền bạc, thuốc men, tổ đình còn chăm sóc và giúp đỡ bằng các liệu pháp tinh thần như cúng bái, cầu nguyện, gia trì, Tiến sĩ Trần Hồng Liên nhận định “Dù ít hay nhiều, con người thường phải đối mặt với khó khăn, hiểm nguy, thất bại, thiên tai, bệnh tật, cái chết của những những người thân thuộc, yêu quý và cái chết của chính bản thân mình. Trong những lúc như thế, cuộc sống con người rất dễ bị tổn thương và trở nên vô nghĩa, niềm tin tôn giáo giúp cho con người khó bị rơi vào tuyệt vọng hơn. Một số tôn giáo còn cung cấp cho con người những biện pháp cầu nguyện, cúng bái thần linh trong niềm tin rằng rằng những việc làm như vậy sẽ giúp cải thiện được tình hình”.7 Vì vậy có thể nói, hệ phái Khất sĩ Bắc tông đã và đang thực hiện rất tốt vai trò của mình trong cả hai lĩnh vực “đạo” và “đời”, làm nổi bật lên được phương châm “Tốt đời, đẹp đạo”, “Đạo pháp, Dân tộc, Chủ nghĩa Xã hội”. TÀI LIỆU THAM KHẢO Đại sư Huệ Nhật 1948, Pháp môn Đáo Bỉ Ngạn, NXB Tôn Giáo. Giáo hội Phật giáo Việt Nam 2001, Biên niên sử Phật giáo Gia Định – Sài gòn, thành phố Hồ chí Minh 1600 – 1992, NXB Thành phố Hồ Chí Minh. Hà Văn Tấn 1987, Về 3 yếu tố của Phật giáo Việt Nam Thiền, Tịnh, Mật, Tập Văn số 9, Ban Văn hóa TƯ GHPGVN. Hoàng Văn Chung Chủ biên 2019, Giá trị và Chức năng cơ bản của Phật giáo, NXB Khoa Học Xã Hội. Linh Quang tịnh xá với những Phật sự và công tác xã hội 1989 – 2004, NXB Tôn Giáo. 2004. Nguyễn Quốc Tuấn 2012, Đặc điểm và vai trò của Phật giáo Việt Nam thế kỷ XX, NXB Từ Điển Bách Khoa, Hà Nội. Nguyễn Quốc Tuấn đồng chủ biên 2016, Hệ phái Khất sĩ Qua trình hình thành, phát triển và hội nhập, NXB Hồng Đức. Nhiều tác giả 2001, Nguồn sống an lạc, NXB Tôn Giáo. Phòng khám CTĐ nhân đạo, Linh Quang tịnh xá, Quận 4 – 2005, Đặc san Xuân Ất Dậu. Thích Đồng Hạnh, Sự phát triển và đặc điểm của Phật giáo Nam kỳ giai đoạn 1920-1945, Nguyệt san Giác Ngộ số 291 06/2020. Thích Giác Duyên 2014, Hệ phái Khất sĩ 70 năm hình thành và phát triển, NXB Tôn Giáo. Thích Hạnh Thành 2007, Tìm hiểu Phật giáo Khất sĩ ở Nam bộ trong thế kỷ XX, NXB Tổng Hợp – Tp Hồ Chí Minh. Thích Minh Chuẩn 2008, Hệ phái Khất sĩ Bắc Tông Đại sư Huệ Nhựt, Lưu hành nội bộ. Trần Hồng Liên 2004, Góp phần tìm hiểu Phật giáo Nam bộ, NXB Khoa Học Xã Hội. Trần Hồng Liên 2007, Phật giáo ở thành phố Hồ Chí Minh, NXB Tổng hợp Trần Hồng Liên 2010, Tìm hiểu chức năng xã hội của Phật giáo Việt Nam, NXB Tổng Hợp _________1. Đại sư Huệ Nhật 1948, Pháp môn Đáo Bỉ Ngạn, NXB Tôn Giáo. 2. Đại sư Huệ Nhật 1948, Pháp môn Đáo Bỉ Ngạn, NXB Tôn Giáo. 3. Thích Minh Chuẩn 2008, Hệ phái Khất sĩ Bắc tông Đại sư Huệ Nhựt, Lưu hành nội bộ, tr 112. 4. Linh Quang tịnh xá với những Phật sự và công tác xã hội 1989 –2004, NXB Tôn Giáo, 2004, tr. 5. 5. Thích Đức Thiện, Phật giáo Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước thời kỳ hội nhập quốc tế. Nguồn , truy cập 29/11/2020. 6. Nhiều tác giá 2001, Nguồn sống an lạc, NXB Tôn Giáo, tr. 182. 7. Trần Hồng Liên 2007, Phật giáo ở thành phố Hồ Chí Minh, NXB Tổng hợp tr. 14. Nguồn Các hệ phái Phật giáo và tôn giáo mới tại vùng Nam Bộ, Ban chỉ đạo HT. Thích Trí Quảng; Ngô Thị Phương LanChủ biên Thích Nhật Từ, NXB Hồng Đức Thánh Địa Việt Nam Học
hệ phái khất sĩ là gì